“Lẽ ra ngay từ đầu cậu không nên biết.” Tảo Lam nói. Chắc chắn cô ấy có một cái tên linh mục, nhưng tôi thích gọi cô ấy là Tảo Lam hơn, cũng như cô ấy và chị gái vẫn gọi tôi là “Cá Nhồng”. “Chỉ có linh mục và học giả trên mỗi hòn đảo mới biết vị trí của nó, và đó là khu vực trung lập.”
“Khu vực nào cơ?” Cô ấy dùng một từ không phổ biến trong phương ngữ phía Bắc.
Trung lập. Cô ấy nói điều đó một lần nữa bằng phương ngữ của Icahn, và sau đó, như thể sợ tôi không hiểu tiếng mẹ đẻ của cô ấy, cô ấy lặp lại bằng ngôn ngữ của Đảo Lớn. Tầng hầm cổ nhất trên đảo được bí mật xây dựng dưới thời Vua “Sói Tuyết”, các pháp sư ở các hòn đảo phía Bắc nhận được sự giúp đỡ của các linh mục trong cung điện để giấu sách vào hộp gỗ đựng cá và vận chuyển ra ngoài để tránh bị tiêu hủy. Sau chiến tranh, thay vì gửi sách về, họ lại di chuyển nhiều hơn. Tin tức được giữ bằng những giọng nói trầm thấp cẩn thận, trên những mảnh giấy nhỏ, đằng sau những cánh cửa đóng kín, rồi lan truyền chậm rãi qua nhiều ngôi đền, nhà nguyện, lều vu y và thư viện. Một tầng hầm được mở rộng thành hai, ba, sáu và thêm các khối đá nhô ra ngoài. Những bản thảo quý giá dễ vỡ được tập trung về đây từ nhiều hòn đảo khác nhau, một hệ thống lưu trữ được đánh số đã được thiết lập, phòng viết và phòng ngủ xuất hiện, rồi ai đó nghĩ đến nhu cầu mở ra không gian để lưu trữ thực phẩm và nấu nướng, tiếp đó là đồ dùng cho mùa đông, sau khi mọi thứ đã thoải mái, có người mang đến bàn cờ và xúc xắc, chất thành đống ở một nơi dễ thấy trong tủ, xét về độ hao mòn thì có vẻ người ta thường chơi với chúng. Khi tôi mới đến đảo, giếng trời là cải tiến mới nhất, để tiết kiệm dầu cá voi thắp sáng, người ta gắn kính trong suốt đến mức tưởng như không tồn tại, loại kính này chỉ có thể nung ở Quần đảo phía Bắc, sản phẩm của các xưởng khác luôn có lẫn tạp chất loại này hay loại khác. Bây giờ tôi lo lắng về sự hỏng hóc ngoài ý muốn của nó, mảnh kính này đã trở thành di vật, đến từ một thế giới chết chóc, không thể thay mới và cũng không thể thay thế.
Lưu ý rằng tính từ được sử dụng ở trên là “trung lập” chứ không phải “bí mật”. Một số vị vua, tù trưởng và lãnh đạo hội đồng biết đến sự tồn tại của một nhà kho nhỏ như vậy, mặc dù họ không biết vị trí chính xác của nó ở đâu. Nếu nhất định phải hỏi thì họ có thể dễ dàng nhận được câu trả lời, nhưng họ vốn không thực sự quan tâm, cứ để cho những con ốc mượn hồn ẩn náu trong thư viện chơi đùa với những lời cầu nguyện và bài thơ của chúng, dù sao cũng chẳng ảnh hưởng gì. Đảo đá nhỏ không có tên, khi nói về nó trong thư từ và trong những cuộc trò chuyện, chắc chắn sẽ có một số hiểu lầm khi tham khảo, không rõ “đảo nhỏ” ám chỉ một hòn đảo nhỏ nói chung hay ngôi đền trí tuệ – hòn đảo đá cô đơn. Cái tên yêu thích của tôi được người phương Bắc đặt cho nó, dịch theo nghĩa đen sang ngôn ngữ của Đảo Lớn, là “Tổ của chim sấm”. Trong tôn giáo của họ, chim sấm đại diện cho trí tuệ tiềm ẩn.
Tôi chỉ ở nhà một đêm trước khi lên đường tới “Tổ của chim sấm”. Sau khi rời cảng Đảo Lớn, tôi vất vả chèo thuyền suốt hai ngày đêm, đến sáng thứ ba, đàn cá heo kéo chiếc thuyền kayak êm ái qua vùng núi lửa. Đường nét của đảo Icahn hiện ra ở phía xa vào khoảng giữa trưa, và đến buổi chiều, cuối cùng tôi cũng tháo được đám cá heo rồi chèo một mình qua quãng đường còn lại, kéo chiếc thuyền kayak lên bãi biển. Tôi đứng đó một lúc, không biết mình đang chờ đợi điều gì, có lẽ đang chờ ai đó đón mình, hoặc có lẽ tôi muốn quan sát xem hòn đảo quê hương có gì khác lạ không. Bãi biển và những túp lều thấp sau hàng cây trông vẫn giống hệt như lúc tôi rời đi, thực sự tôi hơi thất vọng vì tôi đã đi lâu như vậy, lẽ ra hòn đảo này cũng phải thay đổi một chút – không biết những người khác có nghĩ như vậy không. Tôi đoán đây thực chất là một loại tự phụ. Tại sao một hòn đảo lại phải thay đổi chỉ vì sự vắng mặt của tôi?
Cánh cửa nhà chúng tôi hé mở, em gái út Cá Hồng Bạc của tôi đang lăn lộn với con chó trong vũng bùn trước sân, tôi chưa từng nhìn thấy chú chó con này bao giờ, nhưng chắc nó mới được nuôi gần đây. Con chó chú ý đến tôi đầu tiên, lăn qua, đứng dậy rồi vừa sủa vừa lùi lại. Cá Hồng Bạc ngẩng đầu lên, mắt mở to, trong giây lát tôi lo nó không nhận ra mình, nhưng Cá Hồng Bạc đã nhanh chóng chạy tới ôm lấy eo tôi. Tôi bế nó lên và bước vào nhà.
Khi họ nhìn thấy tôi, mọi thứ trong nhà như dừng lại trong giây lát. Đột nhiên tôi bị vùi trong những cái ôm và những nụ hôn, không biết người cha nào đã xoa bột mì lên mặt tôi, cũng không biết thứ súp màu nâu trên quần áo của tôi là từ bàn tay của người mẹ nào. Họ hỏi tôi nhiều câu hỏi cùng một lúc và tôi không biết nên trả lời câu nào trước. Chị tôi kéo tôi đến bàn ăn rồi bảo tôi ngồi xuống, mẹ Noor yêu cầu mọi người im lặng, chạm vào mặt tôi và nói họ không biết tôi về, nếu không họ đã làm kẹo cho tôi rồi.
Những lá thư từ các linh mục đến một cách đột ngột. Tôi trả lời mà không nói gì thêm. Họ hỏi tôi có cần đến Đảo Lớn nữa không và nếu có thì khi nào. Tôi chỉ có thể thành thật trả lời là tôi không biết. Tôi đã hy vọng được gặp cha Cormoran, nhưng ông không có ở đó, không có gì ngạc nhiên khi ông được cử đến một trạm buôn bán hẻo lánh nào đó để mua nguyên liệu làm hương cho ngôi đền.
Đêm đó tôi ngủ trong phòng ngủ thời thơ ấu của mình, mặc dù tôi có cabin riêng, giống như những người lớn khác chưa lập gia đình. Nhưng tôi đã đi xa quá lâu, mẹ Noor kể với tôi rằng mái nhà gỗ đã bị sập trong trận mưa lớn vào mùa hè năm ngoái, cỏ dại đã xâm chiếm mọi nơi mà mặt trời có thể chiếu sáng. Cha tôi giúp tôi lấy lại đồ đạc cá nhân nhưng không sửa lại mái nhà – tất nhiên là không, đó là trách nhiệm của một mình tôi.
Sau khi tôi rời nhà, phòng ngủ cũ của tôi trở thành nơi chứa đựng những món đồ bừa bộn, cồng kềnh. Chiếc khung cửi bị hỏng che mất hoàn toàn cửa sổ và tôi phải bước qua nhiều hộp, thùng để đến được giường của mình. Chiếc giường nhỏ hơn tôi nhớ, chiếc chiếu rơm có mùi hôi khó chịu do lâu ngày không sử dụng. Không giống như Đảo Lớn đầy đuốc, những đêm ở nhà mang đến thứ bóng tối dày đặc không thể xuyên thủng. Thế nên tôi không thổi tắt nến mà nằm đó, nhìn những cái bóng nhảy múa và ngọn lửa mỏng manh.
Giấc ngủ đến cùng với cá voi magma.
Lần này nó không phải ở trong làn nước tối tăm mà trôi nổi trong sương mù, những đỉnh nhọn màu đen thỉnh thoảng xuyên qua sương mù, rồi lại bị bao phủ. Tôi thấy mình đang đứng ở lối vào đền, cuối con đường núi hẹp, phía sau là bức tường đá lửa kiên cố và phía trước là vách đá phủ đầy sương trắng. Con cá voi lơ lửng giữa không trung như không có trọng lượng, vây và đuôi đung đưa một cách uể oải.
Magma nhỏ giọt từ nó, nhanh chóng nguội đi thành những giọt pha lê núi lửa, rơi xuống những đám mây đang dâng trào.
Bạn là ai? Tôi hỏi, không phải bằng giọng nói, suy nghĩ của tôi vang vọng trong thung lũng, nên không cần phải nói, bạn là ai? Bạn muốn gì?
Câu trả lời của cá voi cũng là tiếng vọng trong thung lũng. Không một lời, không một ngôn ngữ nào, gần với tiếng gầm trầm của sóng vỗ vào đá hơn. Tôi bịt tai lại nhưng hành động này chẳng có tác dụng gì, tiếng sóng lăn tăn trong hộp sọ tôi.
Hát đi, giọng nói ầm ĩ đáp, cảm giác như bị sóng đập thật mạnh vào đầu, tôi lùi lại một bước, ngồi xổm sát vào tảng đá, cảm giác nếu không tựa vào cái gì đó thì tôi sẽ bị cuốn xuống đường núi, lăn xuống vực thẳm sương mù. Hát đi, hát đi.
Hát gì cơ? Tôi nghĩ, rồi nghe thấy ý nghĩ đó vang vọng khắp những bức tường đá, hát gì cơ?!
Sau đó tôi mở mắt ra và nhìn chằm chằm vào những đốm sáng trên tường. Lúc bình minh, có người gõ cửa nhẹ nhàng nhưng rất kiên trì. Nến đã tắt từ lâu, tôi ngồi bên giường, nhìn chằm chằm vào khối sáp vô hình, đợi cho đến khi tiếng sóng trong tai lắng xuống rồi mới đứng dậy, đi vòng quanh các thùng, hộp để mở cửa.
Con chó con vừa nhìn thấy tôi lại sủa, mẹ Pucia nhẹ nhàng dùng chân đẩy nó ra và nói với tôi rằng các linh mục đang đợi ngoài cửa, tôi phải đi theo họ ngay lập tức. Tôi gật đầu rồi lùi một bước vào phòng ngủ, sau đó dừng lại, không chắc mình có cần thu dọn đồ đạc hay không. Cuối cùng, tôi quyết định rằng mình sẽ không cần phải đi lâu và muộn nhất tối nay tôi sẽ về nên đóng cửa phòng ngủ mà không lấy gì cả.
Ý nghĩ này quá lạc quan. Suốt buổi sáng, tôi bị thẩm vấn trong đền, chỉ có thể miêu tả là “thẩm vấn”, các linh mục trông rất nghiêm túc, và mười hai người trong số họ đối mặt với tôi một mình, trong thời gian này, họ chỉ cung cấp nước lạnh trong gáo dừa và thức ăn nhạt nhẽo như bánh mỳ cắt lát. Những câu hỏi của họ cũng giống như những câu tôi đã nghe ở ngôi đền trong rừng, chỉ dài hơn và chứa đầy những chi tiết quá chính xác, như thể họ đang so sánh trải nghiệm của tôi với trải nghiệm của một người vô danh nào đó. Nhưng khi tôi hỏi: “Trước đây có ai từng nằm mơ như vậy không? Khi nào? Cuối cùng thì chuyện gì đã xảy ra?”, các linh mục đều không trả lời.
Buổi chiều bận rộn với đủ loại nghi lễ, ngôi đền đóng cửa ngột ngạt, mùi hương trầm khiến tôi buồn ngủ. Tảo Lam liên tục chọc vào vai tôi khiến tôi phải tỉnh táo. Cuộc tra tấn kết thúc ở hồ bơi, tôi ướt sũng bò ra ngoài, Tảo Lam đưa cho tôi một chiếc áo choàng bằng vải lanh sáng màu mà những người tập sự mặc, tôi mặc vào, trong đầu vẫn đang suy nghĩ xem các bà mẹ sẽ nói gì khi nhìn thấy nó trong bữa tối. Ngay lúc đó, hai vị linh mục lớn tuổi nhất thông báo rằng họ sẽ đến bến tàu.
“Tại sao? Đi đâu?” Tôi lặng lẽ hỏi.
“Suỵt.” Tảo Lam và chị gái cô đồng thời nói.
Chúng tôi đi đến bãi biển từ phía bên kia núi mà không đi ngang qua nhà tôi hay có cơ hội nói chuyện với cha mẹ tôi. Phải đến khi con tàu rời cảng, Tảo Lam mới nhắc đến hòn đảo nhỏ, vùng trung lập nơi trí tuệ được cất giữ. Tôi dựa vào lan can, nhìn đảo Icahn chìm dần theo sóng và hỏi cô tại sao cô lại nghĩ giấc mơ của tôi đã thu hút sự chú ý của linh mục.
“Cậu nhớ huyền thoại về cá voi phải không? Không phải huyền thoại biến thành các ngôi sao, mà là huyền thoại liên quan đến biển, ‘Khi họ hát cùng nhau, nước…’”
“Tớ nhớ.”
“Không có phiên bản thần thoại nào đề cập đến cá voi magma và chúng mình thường cho rằng những con cá voi trong văn bản chỉ là những con cá voi sống bình thường, có màu xám, nhưng thần thoại chưa bao giờ được biết đến vì độ chính xác của chúng. Chúng mình cần đảm bảo rằng đây không phải là…lời tiên tri.” Cô ấy do dự khi nói đến từ tiên tri, như thể bản thân cô cũng không tin vào sự tồn tại của những lời tiên tri. “Đừng lo lắng, mình không nghĩ vậy đâu. Khả năng cảm nhận phép thuật của cậu cũng tương đương với khả năng của một con sên biển.”
“Cảm ơn.”
Sau đó chúng tôi nói chuyện về chiến tranh một lúc. Cô tự hỏi chuyện gì đang xảy ra trên Đảo Lớn và mọi người nghĩ gì, sau đó hỏi tại sao Vua Atukwa muốn chiến đấu và tại sao ông ấy nghĩ mình có thể thắng. Tôi có câu trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên, nhưng tôi không thể trả lời hai câu hỏi cuối cùng. Tôi không biết tại sao, cả hai vị vua còn lại có lẽ đã bị sát hại dã man cũng vậy. Có lẽ mọi cuộc chiến đều bắt đầu như vậy, chỉ cần một người tình cờ chiếm được một ngai vàng nào đó ở đâu đó, uống thứ rượu độc tẩm ngọc châu, những lời nịnh hót cùng đao kiếm rồi say sưa trong giấc mơ chiến thắng và chinh phục mãi từ đó về sau, hoặc rơi xuống vực thẳm lạnh giá, sợ hãi rút kiếm chém vào bất cứ thứ gì chuyển động. Chúng ta thường cho rằng những đại biểu hội đồng, các thượng phụ(1) trong toà án, các vị vua và tù trưởng này phải sở hữu một trí tuệ sâu sắc mà không ai có thể sánh bằng. Suy nghĩ cho rằng những nhà lãnh đạo này đã đi sâu vào bể trí tuệ và tìm ra giải pháp tốt nhất khiến họ yên tâm, giống như thể họ đang ở trên một con tàu buôn gặp được gió xuôi.
(1)Thượng phụ còn được gọi là Trưởng phụ hay Mục thủ, là các giám mục bậc cao nhất trong Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương, và Cảnh giáo.
Nhưng thực tế chiến tranh chỉ là một ý nghĩ trong đầu, và cái đầu đó có thể đội vương miện nhưng thực chất nó vẫn là cái đầu của con người, không khác mấy cái đầu của cậu hay của tôi.
Cậu sẽ đồng ý với tôi, nhưng Tảo Lam thì có thể không, nên tôi đã không nói với cô ấy. Tôi có thể đoán được câu trả lời của cô ấy, cô ấy sẽ nói “Nhưng, các linh mục sẽ biết rõ hơn, đó là điều chắc chắn”, hoặc cô ấy có thể nói “Mặt khác, có rất nhiều người thông minh giúp họ đưa ra quyết định.” Suy nghĩ của tôi quay lại với lời tiên tri, và tôi hỏi nó nói về cái gì, ai đã ghi lại nó cách đây bao nhiêu năm và điều gì đã xảy ra vào lần cuối cùng nó xuất hiện.
Tảo Lam nhìn tôi nói, đây chính là lý do chúng ta đến đảo đá nhỏ, trong tất cả những bản thảo và sách cổ đó, có thể có một chương, một trang hoặc một dòng chữ có thể đưa ra câu trả lời cho câu hỏi của chúng ta, có lẽ.