Còn về phép thuật. Phép thuật tồn tại nhưng người ta nghiên cứu nó quá nhiều và sợ hãi nó quá ít, cuối cùng nó trở thành một trò xiếc cũ trong các lễ hội thu hoạch, và mọi người bị biến thành những lang băm thực hiện trò lừa bịp này. Tôi cũng từng nghĩ rằng phép thuật được ẩn giấu trong một cuốn sách cổ nào đó được giấu đi rất kĩ, trên một trang giấy quý giá nào đó, hay trong một cái đầu thông thái và già nua nào đó, rồi một khi nó được công bố, mọi câu hỏi sẽ được giải đáp. Ngẫm lại, đây vốn là dòng suy nghĩ của nhà thơ, các linh mục ở Icahn đã đúng khi cho rằng tôi đọc quá nhiều thơ tự sự.
Trong đại dương này, người ta thậm chí không thể cùng nhau hát một bài hát. Các vu y bình tĩnh chấp nhận điều này, tôi thì không, tôi lớn tiếng vặn lại, tôi vùng vẫy, tôi vẫn cứ khiêu chiến cái kết mà tôi không thích của câu chuyện này. Đến bây giờ tôi mới hiểu được sự trang nghiêm và điềm tĩnh của họ, giống như những cái cây khổng lồ trên hòn đảo quê hương của họ. Tôi ngưỡng mộ sự cao quý này nhưng nếu có thể quay ngược thời gian và làm lại lần nữa, tôi vẫn sẽ chọn cách phản bác, đấu tranh và thách thức.
Còn gì để viết nữa? Việc tôi ngồi đây lãng phí đống mực đắt tiền đã nói lên điều đó. Tuy nhiên, tôi cảm thấy nhiệm vụ của mình là phải để lại ghi chép, hoàn thành trách nhiệm do chính cái tên của mình đặt ra để người lạ tham khảo trong nhiều năm kể từ bây giờ. Kỳ lạ thay, tôi không nhớ nhiều về ngày hôm đó, nói cách khác là ngày tận thế, có lẽ cú sốc và cơn hoảng loạn đã ăn mòn ký ức, hoặc có lẽ đó là do một loại ma thuật tàn ác nào đó: Những người đến sau tôi lẽ ra không nên được cảnh báo nhiều hơn. Tôi đã từng, và họ cũng phải mò mẫm trên đường giống như tôi, nhưng họ vẫn may mắn hơn tôi, tôi nghĩ mình đã để lại rất nhiều biển chỉ đường cho họ.
Tôi nhớ ngọn lửa, đó là điều chắc chắn. Vào đêm thứ bảy sau khi khởi hành, chúng tôi đã hết thời gian. Lúc đó mọi người thả neo và chuẩn bị đi ngủ. Tiếng ầm ầm phía xa khiến mọi người cảnh giác, không phải xa, phải nói là “sâu”, tiếng sấm dưới nước. Đáng lẽ không nên có những ngọn núi lửa ngầm đang hoạt động ở khu vực này, nhưng bây giờ nói có nên hay không thì cũng vô nghĩa. Tôi hét lên, bảo mọi người nhổ neo ngay lập tức, tản ra và bỏ chạy.
Núi lửa đã không cho chúng tôi một cơ hội. Một khắc trước nước biển vẫn là màu xanh đen đặc, một khắc sau ánh sáng đỏ đã tỏa ra, sáng đến mức giống như đang đứng cạnh một đống lửa điên loạn, thậm chí tôi còn có thể nhìn rõ khuôn mặt của mọi người, cùng với sự bối rối, sợ hãi và lo lắng trên những khuôn mặt đó. Dung nham phun trào, nước biển dường như chỉ còn là một tấm vải dệt mỏng màu đen, chiếc tàu gần ánh sáng đỏ nhất lập tức bị nhấn chìm, thậm chí tôi còn không nghe thấy tiếng người phía trên đó phát ra âm thanh.
Tôi tiếp tục hét lên, yêu cầu bọn họ đi theo tàu của tôi, cá heo biết phương hướng và chỉ có cá heo mới có thể đưa chúng tôi ra khỏi thảm họa này. Nhưng giữa sự hoảng loạn của bản năng và tiếng gầm rú của đáy đại dương, không ai nghe thấy tôi cả. Tôi đứng ở đuôi thuyền, quên mất mái chèo trên tay và cũng quên ra lệnh cho đàn cá heo dưới biển. Trong bóng đêm, từ dưới chân tôi đến tận đường chân trời, cả đại dương rực lên một màu đỏ sẫm. Từ “đêm” không còn chính xác nữa, biển khiến bầu trời đêm ánh lên màu chạng vạng. Tôi nhìn về phía bắc, cũng có màu đỏ như máu, ngọn núi lửa lớn vốn ẩn giấu trong bóng tối giờ giống như một ngọn đuốc cao chót vót, dung nham ào ạt tuôn trào chạm vào nước biển, một vùng lớn hơi nước bốc lên, cùng với hàng tram hàng ngàn ngọn núi lửa nhỏ, khói đen của chúng quyện vào nhau. Đó là cảnh tượng tráng lệ và khủng bố nhất mà tôi từng thấy, ánh lửa và bóng tối quấn lấy nhau, vặn xoắn, móng vuốt duỗi lên không trung, bóng đen phía dưới tràn lan dọc theo mặt biển như mực đổ, như thể nó có sự sống, hơn nữa đó còn là sự sống đói khát, vội vàng tìm kiếm thức ăn. Tôi nghe thấy tiếng kêu chói tai của cá heo, quay lại xem điều gì đã khiến chúng sợ hãi, đúng lúc đó, một dòng dung nham xé toạc mạn trái, boong tàu bốc cháy hừng hực, con tàu vỡ làm đôi, đuôi tàu chìm xuống. Cá heo kéo mũi tàu tiếp tục chạy trốn, tôi thấy ít nhất hai con cá heo chết, bị vướng vào dây cương, có khi lộ ra vây đuôi, có khi lộ ra cái bụng bị cháy đen. Mọi người đều la hét, mọi thứ đều bốc cháy, và tôi nhào về phía bánh lái, không phải để lái mà để tránh khỏi làn nước đang dâng nhanh. Cột buồm trong ngọn lửa bị gãy, phát ra một tiếng động lớn, đó là âm thanh cuối cùng tôi nghe thấy, có cái gì đó đập vào sau gáy tôi, tôi cảm thấy mình trượt trên boong và rơi xuống nước. Tôi không thể biết những con cá voi chỉ đang than khóc trong đầu mình hay thực sự có những con cá voi đang bị tra tấn trong vùng nước cháy. Tôi chìm trong cơn đau âm ỉ và ánh sáng đỏ mờ ảo, nghĩ rằng mình sẽ chết như thế này.
Không phải. Hiện tại, cái chết từ chối cho tôi thấy hình dạng thật của nó.
Tôi tỉnh dậy trên đống đổ nát của boong tàu, một chân bị mắc kẹt giữa các lan can cháy đen. Phần còn lại của con tàu đã biến mất và không còn dấu hiệu của một ai khác. Những mảnh gỗ lớn nhỏ trôi nổi xung quanh, một thùng gỗ chứa đầy nước ngọt đang trôi nổi cách đó không xa. Những con cá heo bơi vòng quanh phần còn lại của boong tàu, đẩy nó về phía trước và phát ra thứ âm thanh như thể đang giận dữ với tôi. Tôi vặn vẹo chân trái, rút nó ra và cố gắng đứng dậy, đó là một ý tưởng tồi, sự cân bằng trên mảnh gỗ gãy nhỏ này mong manh hơn tôi nghĩ. Tôi phải nằm xuống, nhìn ngọn núi lửa ở phía xa. Khói đen che khuất mặt trời, không rõ đang là buổi sáng hay vẫn là chạng vạng. Tôi lật người nằm đó, nhìn bầu trời ô uế, có chút tiếc nuối vì đêm đó mình đã không chết cùng mọi người.
Một con cá heo đập mạnh vào tấm ván, cắn nhẹ vào tay tôi, tựa mõm lên tấm ván và yêu cầu tôi chú ý. Nó bị vướng vào dây cương, tôi bắt đầu cởi trói cho nó. Nếu tôi có một con dao thì chỉ mất hai cái chớp mắt, nhưng tôi không có con dao nên phải mất rất nhiều thời gian để kéo nút thắt. Cuối cùng, khi sợi dây tuột xuống, con cá heo hất tung tôi lên vì sung sướng, và tôi thấy mình đang mỉm cười, một mình, trên boong tàu lởm chởm, giữa biển đầy khói đen.
Tôi nhờ đàn cá heo đẩy thùng nước ngọt về phía mình, kỳ diệu thay, thùng nước ngọt đó vẫn còn nguyên vẹn. Tôi ngồi giữa tấm ván cầm xô nước ngọt này, lắc lư theo sóng. Cuối cùng, tôi thổi một tín hiệu mà tôi chưa từng sử dụng trước đây cho đàn cá heo. Mọi thủy thủ trên đảo Icahn đều đã được học tiếng huýt sáo dài và nhấp nhô này. Và chúng tôi đều hy vọng rằng mình sẽ không phải sử dụng nó. Đó là một trong những phương tiện sinh tồn sau khi gặp tàu đắm, khi chúng ta đang lang thang ngoài biển khơi và không biết đảo mẹ nằm ở hướng nào thì tiếng còi này sẽ yêu cầu đàn cá heo đưa chúng ta “vào bờ an toàn”, bất kể nơi đó ở đâu. Tôi rất lo lắng mình đã thổi sai âm tiết nào, vì lũ cá heo không hành động ngay lập tức, chúng quay vòng, lao về phía trước, rồi quay đầu và bơi trở lại, lặp lại điều này nhiều lần trước khi tập hợp lại và đẩy tấm ván gỗ tội nghiệp này, chậm rãi chuyển hướng về phía đông bắc.
Ngày hôm sau khi đã uống hết nước ngọt, tôi đặt chân lên bến tàu hoang vắng của đảo đá nhỏ.
——
Hôm nay tôi lại đi ngắm núi lửa. Cột khói vẫn còn đó nhưng ánh lửa đã biến mất. Gió nam thổi bay đi một phần khói nên bình minh bớt mờ ảo hơn thường ngày. Tôi đợi bóng con thuyền xuất hiện trên bến tàu lần cuối, nghĩ rằng hôm nay tôi có thể nhìn xa hơn và có thể khám phá được điều gì đó. Tuy nhiên, ngay cả khi còn có một con tàu nào đó trên đại dương, chúng cũng sẽ không đi theo hướng này.
Buổi chiều trời có mưa, mưa sẽ mang đi nhiều khói bụi hơn. Tôi quyết định ngày mai lên đường, thuyền tam bản của tôi đã được đóng xong, mái nhà bị sập trong cơn bão đã cung cấp gỗ cho tôi. Chiếc thuyền tam bản đó trông không đẹp lắm. Kỹ năng đóng tàu của tôi không bằng của cậu, và ở đây không có loại sơn nào thân thiện với tàu thuyền. Nếu có, tôi sẽ rất vui khi dành thêm vài ngày để sơn chiếc thuyền tam bản thành một chiếc thuyền ba lá dành cho lễ hội. Tuy vậy, tôi đã thử nước trong đầm và không có hiện tượng rò rỉ nước trong khoang thuyền, tôi nghĩ thế là đủ.
Nếu cậu tình cờ tìm thấy tôi ở đây, tôi sẽ đi thuyền tới vùng biển phía Nam, tránh xa những ngọn núi lửa, để tìm kiếm những hòn đảo mới.
Cậu biết nên tìm tôi ở đâu mà, ngay nơi đàn cá heo tụ tập.
Trang cuối cùng
Tôi biết ngoài Tuhfa sẽ có người khác đọc những lá thư này, câu chuyện này, và tôi không bận tâm. Tôi cũng nghĩ về các bạn khi viết, tưởng tượng đôi mắt của Tuhfa và của các bạn cùng một lúc, viết cho cả cậu ấy và những người xa lạ đến sau này. Đây cũng là câu chuyện của tôi, khi viết truyện, người ta thầm mong rằng sẽ có nhiều người đọc nó.
Các bạn có thể đọc nó, nhưng đồng thời, các bạn phải hiểu rằng các bạn không phải là những độc giả mà tôi hướng đến. Xin các bạn đừng bẻ đôi những tờ giấy này chứ đừng nói đến việc mang đi, hãy để nó ở nguyên chỗ cũ để khi Tuhfa của Đảo Lớn đến thì cậu ấy có thể nhìn thấy nó ngay lập tức.
Hoàn thành
Lời tác giả: Cảm ơn vì đã đọc! Tôi vô cùng biết ơn mọi người đã tiếp tục để lại bình luận trong suốt bộ truyện, nếu không có các bạn, việc chạy đường dài một mình sẽ trở nên khó khăn hơn.
——
Vậy là một hành trình dài edit Tuhfa của mình đã kết thúc, đây vốn chỉ là một câu chuyện ngắn chưa đến 30 chương, bình thường edit cũng không mất nhiều thời gian đến vậy, nhưng dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên mình nghiêm túc bắt tay vào edit một bộ truyện như vậy, thành ra khó tránh khỏi có những lúc nản lòng thoái chí, muốn bỏ edit quách cho rồi, may mắn là sau tất cả thì mình cũng đã hoàn thành bộ truyện edit đầu tay này (tuy là bản edit vẫn còn nhiều lỗi), vallennox vốn là một tác giả mà mình rất yêu thích, vậy nên mình cũng mong bản thân sẽ có thể đưa truyện của val đến với nhiều người hơn.
Cuối cùng là cảm ơn và xin chúc các bạn một ngày tốt lành.