Vào mùng tám tháng chạp* hằng năm, bọn trẻ không đến lớp. Kỷ Vân Đồng đi dọc theo con đường nhỏ tĩnh mịch trong rừng tre, chẳng mấy chốc đã nhìn thấy mấy căn nhà tranh nằm sâu trong rừng. Tuy trông giản dị đơn sơ nhưng khi lại gần thì cảm thấy yên tĩnh và tao nhã.
*Mùng tám tháng chạp: Phong tục ăn cháo vào ngày mùng 8 tháng Chạp đã có lịch sử hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Đây còn được coi là “Tiết lệnh” đầu tiên của Tết truyền thống, có nghĩa là qua mùng 8 tháng Chạp không khí của Tết đã đến. Sau một năm lao động vất vả, trong tiết trời lạnh giá của tháng Chạp, mọi người nô nức đi chùa, ăn cháo được nấu từ nhiều loại hạt như kê, gạo tẻ, gạo nếp, hạt dẻ, hạnh nhân, hạt dưa, lạc, hạt thông, nhân táo, nho khô…
Người thư sinh trẻ mà hôm trước nàng đã gặp không đọc sách mà ngồi dưới mái hiên, dùng tre đã chẻ ra để đan cái gì đó.
Nghe thấy tiếng bước chân của hai người chủ tớ Kỷ Vân Đồng, thư sinh ngẩng đầu lên nhìn, thoáng chốc khuôn mặt thanh tú đầy kinh ngạc, sau đó hắn vội vàng đặt mảnh tre trong tay xuống, đứng dậy đón lấy quà cảm ơn của Kỷ Vân Đồng.
Kỷ Vân Đồng mỉm cười nói: “Hôm ấy nhờ có công tử giúp chúng ta sửa lại xe ngựa, nếu không có lẽ chúng tôi đã bị mắc kẹt do trận tuyết đó rồi.” Nàng nói chuyện vô cùng tự nhiên, hoàn toàn không có chút gì lúng túng khi đột ngột ghé thăm nhà người khác.
Thư sinh vội nói: “Chuyện nhỏ thôi, không đáng nhắc đến.”
Kỷ Vân Đồng không khách sáo qua lại, thẳng thừng nhét quà vào tay đối phương, nói: “Đây đều là bút nghiên giấy mực, nếu công tử không dùng được thì đem thưởng cho học trò đi. Đồ đã mua rồi công tử đừng để ta phải mang về, ta buồn đấy.”
Nhất thời thư sinh không biết phải nói gì.
Ánh mắt Kỷ Vân Đồng rơi vào đồ tre hắn đang làm, ngạc nhiên hỏi: “Công tử đang làm đèn lồng sao?”
“Đúng vậy, ta làm đèn lồng,” Nhắc đến việc mình đang làm, thư sinh cuối cùng cũng lên tiếng, tiếp tục nói, “Bọn trẻ thích, sắp Tết rồi nên ta làm cho chúng vài cái.”
Đôi mắt Kỷ Vân Đồng sáng rực lên, nhìn thư sinh nói: “Ta cũng thích.”
Bắt gặp khuôn mặt tươi cười của Kỷ Vân Đồng, thư sinh lại có lắp bắp: “Vậy ta, ta làm cho ngươi một cái nữa.”
Kỷ Vân Đồng lập tức kéo một chiếc ghế gỗ thấp của học trò đến, ngồi xuống bên cạnh để quan sát hắn làm đèn tre.
Trong lúc làm đèn lồng, hai người cũng trao đổi tên. Thư sinh tên là Liễu Văn An, vốn là người làng Ngưu Thủ. Trước đây cha hắn không chỉ làm thợ mộc mà còn kiêm luôn thầy dạy trong làng.
Sau này cha hắn bệnh nặng qua đời, hắn vừa giữ hiếu vừa tạm thời tiếp nhận việc dạy học để không làm lỡ việc học của bọn trẻ.
Mẫu thân của hắn thì đã về nhà ngoại từ lâu, năm ngoái đã tái giá. Hắn cảm thấy như vậy cũng rất tốt, hắn đã có thể tự nuôi sống mình, nếu mẫu thân có chốn nương thân tốt hắn cũng vui thay người.
“Khi hết thời gian chịu tang, Liễu hiền huynh có định đi thi không?” Kỷ Vân Đồng tò mò hỏi.
Liễu Văn An khiêm tốn đáp: “Học vấn của ta chưa đủ để đi thi, phải khổ học thêm vài năm nữa mới tính đến.”
Ánh mắt Kỷ Vân Đồng chuyển đến đôi tay đang xử lý mảnh tre của Liễu Văn An.
Người khác nhìn người thường thích nhìn mặt, nàng thì không giống vậy, nàng thích nhìn tay.
Tay của Cố Nguyên Phụng rất đẹp, trước đây khi hắn bắn cung hay viết chữ nàng thường nhìn chằm chằm không chút e dè. Cố Nguyên Phụng nói nàng không biết xấu hổ, nàng không hiểu, họ là hôn phu hôn thê, nàng nhìn hôn phu của mình thì có gì sai?
Giờ Kỷ Vân Đồng nghĩ không nhìn thì không nhìn, thế gian này người có đôi tay đẹp đâu chỉ có mình Cố Nguyên Phụng. Tay của Liễu Văn An cũng rất đẹp, bàn tay thon dài, mạnh mẽ, ngón tay vì lâu ngày cầm bút mà có vết chai sạn mỏng, nhìn là biết tay của người viết chữ.
Kỷ Vân Đồng nhìn chằm chằm một lúc mới chợt nhớ ra Liễu Văn An không phải là vị hôn phu của nàng. Nàng mặt không đổi sắc chuyển sang chủ đề khác: “Ta muốn học làm đèn lồng, huynh có thể dạy ta không?”
Liễu Văn An nói: “Tất nhiên là được.”
Hắn chậm rãi làm mẫu cho Kỷ Vân Đồng xem, rõ ràng là đã quen với việc kiên nhẫn chỉ dạy cho người khác. Kỷ Vân Đồng chỉ học một lúc đã có thể làm ra chiếc đèn lồng tre tương đối giống mẫu. Mắt nàng sáng lên, quay đầu chân thành cảm ơn Liễu Văn An: “Đa tạ huynh đã dạy ta, hóa ra làm cái này cũng không khó lắm.”
Liễu Văn An nói: “Là hiền đệ thông minh hơn người mới có thể học nhanh như vậy.”
Kỷ Vân Đồng giơ cao chiếc đèn lồng lên trước mặt ngắm nghía, nhẹ nhàng nói: “Có một năm vào tháng chạp, cha mẹ ta hiếm khi về Kim Lăng ăn Tết, cha ta làm đèn hoa đăng cho đệ đệ và muội muội, họ vui vẻ cầm đèn chạy đến khoe với ta. Ta còn nghĩ làm cái này rất khó, không nghĩ là mình cũng làm được, hóa ra không khó chút nào.”
Liễu Văn An khẽ dừng lại, nhìn thiếu nữ với nụ cười trên môi trước mặt, lần đầu tiên cảm thấy hối hận vì mình không biết cách an ủi.
Hắn lặng lẽ làm những hoa văn mới cho Kỷ Vân Đồng.
Kỷ Vân Đồng chỉ tiện miệng kể lại mà thôi. Chuyện đó đã là từ rất lâu rồi, hồi tưởng lại cũng không thấy buồn mấy.
Ánh mắt nàng nhanh chóng trở lại với đôi tay của Liễu Văn An, mượn cớ học làm đèn lồng mà công khai ngắm nghía một lúc lâu.
Gần đến hoàng hôn, Kỷ Vân Đồng vui vẻ cầm chiếc đèn lồng đẹp nhất rời khỏi rừng tre.
Không ngờ hai chủ tớ nàng vừa ra khỏi làng Ngưu Thủ đã gặp ngay đám người Cố Nguyên Phụng đang trên đường về trang viên suối nước nóng.
Hôm nay tâm trạng Kỷ Vân Đồng rất tốt, gặp lại đám người Cố Nguyên Phụng cũng không còn lạnh lùng, còn mỉm cười chào: “Thật trùng hợp.”
Cố Nguyên Phụng thấy Kỷ Vân Đồng tươi cười, lòng cũng dịu lại. Đã nhiều ngày nàng ấy không bám theo hắn, chắc hẳn đã nhận ra mình không nên nói linh tinh trước mặt bằng hữu của hắn rồi. Hắn nói: “Muộn rồi, không tiện về thành, ngươi về trang viên ở tạm một đêm với chúng ta đi.”
Kỷ Vân Đồng thoáng sững sờ rồi nói: “Không cần đâu, ta có trang viên của mình.” Trước đây nàng không nghĩ thông suốt, Cố Nguyên Phụng đi đâu nàng cũng bám theo đó, nếu đổi lại mình bị người khác bám theo nàng cũng sẽ thấy phiền. Vậy nên quan hệ hai người trở nên thế này cũng không thể hoàn toàn trách Cố Nguyên Phụng được.
Để không phá hỏng tâm trạng tốt của mình hôm nay, Kỷ Vân Đồng trả lời xong liền định quay lưng rời đi.
Cố Nguyên Phụng không ngờ Kỷ Vân Đồng lại nói vậy, chưa kịp phản ứng thì đã vươn tay nắm lấy cổ tay nàng.
Kỷ Vân Đồng suýt nữa đánh rơi đèn lồng.
Nàng không vui quay đầu nhìn Cố Nguyên Phụng.
Kỷ Vân Đồng thừa hưởng những nét đẹp của phụ mẫu, mày không kẻ mà đen, môi không son mà đỏ, đôi mắt sáng ngời có thần. Nhìn gương mặt này gần như vậy, dù có tức giận đến đâu cũng không thể phát tác.
Cố Nguyên Phụng nắm chặt tay Kỷ Vân Đồng, kiên nhẫn nói: “Đừng trẻ con nữa, Kỷ gia đâu có trang viên ở đây?”
Kỷ Vân Đồng có chút hối hận vì đã chào họ.
Giờ nghe Cố Nguyên Phụng nói chuyện, nàng không khỏi bực bội, tâm trạng tốt đẹp bị hắn phá hỏng hết toàn bộ.
Kỷ Vân Đồng vừa gỡ tay Cố Nguyên Phụng ra vừa bực bội đáp: “Ta mới mua tháng trước. Sao? Chỉ có các người được mua trang viên ở đây, ta không được mua à?”
Nàng đang nghĩ cách nhanh chóng đuổi Cố Nguyên Phụng đi, bỗng nghe có người gọi “Tam muội muội!”.
Nàng ngẩng đầu nhìn, thấy đại đường ca Kỷ Triệu Phong cưỡi lừa tìm đến, còn đeo theo túi sách nặng trĩu trên lưng.
Kỷ Triệu Phong tiến lại gần mới thấy đám người Cố Nguyên Phụng bèn ngập ngừng nói: “Muội muội định ăn cháo mùng tám tháng chạp với Cố huynh à?”
Kỷ Vân Đồng đáp: “Không, muội tình cờ gặp thôi. Bên ngoài lạnh quá, chúng ta về trang viên rồi nói sau.”
Kỷ Triệu Phong ậm ừ vài tiếng, ngại ngùng cười với Cố Nguyên Phụng rồi bước theo Kỷ Vân Đồng vào trang viên. Vừa đi hắn vừa hào hứng nói với Kỷ Vân Đồng: “Ta mua bánh ngọt muội muội thích ăn, còn có gà nướng bơ của Vân Lai Lâu…”
Kỷ Vân Đồng có nhiều thứ tốt rồi, nếu mua quần áo trang sức, tiền nhà hắn cũng không đủ để mua những thứ nàng thích.
Đồ ăn thì khác, hắn biết Kỷ Vân Đồng thích ăn gì, có thể đổi món để mua cho nàng nhiều lần.
Vừa nói hai huynh muội vừa dần đi xa, Cố Nguyên Phụng chỉ còn nghe được tiếng Kỷ Vân Đồng nhẹ nhàng trả lời Kỷ Triệu Phong.
Nàng nói gì thì không nghe rõ nữa.
Cố Nguyên Phụng cúi đầu nhìn tay phải của mình, vừa rồi bàn tay này còn nắm cổ tay Kỷ Vân Đồng, cảm giác ấm áp mềm mại như không xương, giống như thể buông tay ra là không thể giữ lại.
Sao lại có cảm giác hoang đường như vậy?
Bên cạnh Chu Tụng thấy sắc mặt Cố Nguyên Phụng không đúng, liền nói: “Phụng ca, huynh vừa mua trang viên ở đây là nàng ta liền mua theo ngay, đúng là làm gì cũng không thể rời xa huynh.”
Cố Nguyên Phụng hoàn hồn, càng thấy cảm giác vừa rồi thật vô lý.
Hắn và Kỷ Vân Đồng được đính hôn từ trong bụng mẹ, dù nàng có giận thật hay giả, vài năm nữa cuối cùng vẫn phải gả cho hắn thôi.
Hơn nữa, như giờ đây chẳng phải chính là điều hắn muốn sao? Hắn vốn không thích Kỷ Vân Đồng cứ đeo bám mình.
Cố Nguyên Phụng lạnh lùng nói: “Đi thôi, trời tối rồi.”
Ở phía bên kia, huynh muội Kỷ gia cùng vào trang viên.
Đến khi xác định Cố Nguyên Phụng không thể nhìn hay nghe thấy nữa, Kỷ Triệu Phong mới lo lắng hỏi: “Tam muội muội, muội cãi nhau với hắn à?”
Kỷ Vân Đồng nghĩ về cuộc cãi vã trước đó, ừ một tiếng, rồi nói: “Đúng, cãi nhau. Huynh muốn làm người hòa giải à?”
Chú ý thấy ánh mắt của Kỷ Vân Đồng có phần nguy hiểm, Kỷ Triệu Phong vội nói: “Huynh không khuyên đâu, tam muội muội hiểu biết hơn huynh nhiều, bất kể muội quyết định thế nào huynh đều ủng hộ.”
Kỷ Vân Đồng không tiếp tục chủ đề này mà quay sang hỏi Kỷ Triệu Phong: “Hôm nay huynh bái sư thuận lợi không?”
Nhắc đến chuyện bái sư, Kỷ Triệu Phong lập tức cười ngây ngô: “Thuận lợi, rất thuận lợi, huynh còn được ăn một bữa ở nhà thầy.”
Cười xong, Kỷ Triệu Phong không nhịn được hỏi: “Sao muội có thể mời được Trừng Xuyên tiên sinh vậy?”
Trừng Xuyên tiên sinh là bạn tri kỷ của Trương Đại học sĩ, cũng là danh sĩ nổi tiếng ở Kim Lăng, tài năng hội họa của ông từng được cả tiên hoàng khen ngợi.
Chính nhờ có Trừng Xuyên tiên sinh làm chứng, việc bái sư của Kỷ Triệu Phong mới diễn ra thuận lợi như vậy.
Kỷ Vân Đồng nói: “Trước đây muội có quen biết. Mỗi người đều có sở thích riêng, chỉ cần hợp ý họ, nhờ họ giúp chút việc nhỏ không khó.”
Nàng không hiểu về thư họa nhưng Cố Nguyên Phụng thích nên nàng mới tìm cách tạo quan hệ với Trừng Xuyên tiên sinh, định nhờ tiên sinh vẽ một bức tranh làm quà sinh thần cho Cố Nguyên Phụng.
Bây giờ không cần nữa, nàng quyết định dùng mối quan hệ này giúp Kỷ Triệu Phong, tránh để lâu bị lãng quên.
Kỷ Triệu Phong biết việc chắc chắn không đơn giản như Kỷ Vân Đồng nói nhưng thấy nàng không muốn nói nhiều, hắn cũng không hỏi thêm, chỉ nhanh tay bày biện thức ăn mang theo lên bàn.
Kỷ Vân Đồng ăn rất vui vẻ, giữ Kỷ Triệu Phong ở lại trang viên một đêm.
Nàng cũng ở lại trang viên thêm vài ngày, lúc rảnh rỗi thì vẽ vài bản vẽ rồi tìm Liễu Văn An, hỏi hắn có thể làm theo mẫu không.
Thường xuyên qua lại, trong phòng Kỷ Vân Đồng có thêm mấy vật dụng tre tao nhã, mối quan hệ của hai người cũng càng thêm thân thiết.
Tết đến gần, Kỷ Vân Đồng nói với Liễu Văn An về việc mình phải về thành, bảo hắn có thể gửi thư đến trang viên của nàng.
Mùa đông dài đằng đẵng, đọc sách thấy có nội dung thú vị hoặc có chuyện gì vui trong cuộc sống đều có thể trao đổi qua thư từ.
Sau khi Kỷ Vân Đồng đi xa, Liễu Văn An cầm tờ giấy ghi địa chỉ trang viên, ngón tay dưới tờ giấy không tự chủ được khẽ siết lại.
… Hắn dường như không được ngay thẳng như trong lòng nàng nghĩ.
Làm sao một chính nhân quân tử lại có thể giả vờ không nhận ra nàng là con gái, liên tục để nàng đến nhà gặp gỡ?
Ở bên kia, Kỷ Vân Đồng đã đang trên đường về thành.
Trên xe ngựa khi chỉ còn chủ tớ hai người, Lục Khởi không nhịn được hỏi Kỷ Vân Đồng: “Cô nương, cô nương thật sự chỉ muốn làm bạn với Liễu công tử thôi sao?”
Kỷ Vân Đồng nhướng mày: “Không vậy thì sao?”
Lục Khê nói: “Nô tỳ sợ cô nương thích Liễu công tử…”
Kỷ Vân Đồng đáp: “Có gì mà sợ,” nàng tự nhiên nói ra kết quả khảo sát trong thời gian qua, “Huynh ấy cũng là một lựa chọn không tệ cho vị trí phu quân. Cưới về không cần hầu hạ cha mẹ chồng, việc trong nhà đều có thể tự mình quyết định. Hơn nữa, tài học của huynh ấy rất tốt, ta nghĩ là hơn huynh trưởng một chút, sau này thi cử đỗ đạt cũng không khó.”
Tất nhiên, điều quan trọng nhất là Liễu Văn An rất hợp nàng, tay lại rất đẹp.
Nghe vậy, Lục Khởi cũng thấy yên tâm hơn.
Không phải vì nàng dễ dàng bị thuyết phục bởi những điều kiện Kỷ Vân Đồng liệt kê mà vì giọng điệu của cô nương nhà nàng khiến người ta cảm giác như đang… mua mèo mua chó, so sánh hàng hóa vậy.
Hoàn toàn không có dấu hiệu của người đang chìm đắm trong tình yêu.