“Những con mèo lửa.” Charlie lẩm bẩm.
“Cậu trở lại rồi sao, Charlie?” Một giọng nói.
Một màn sương bạc bao quanh Charlie, và khi chớp mắt nó thấy mình lọt thỏm trong tầm nhìn của 6 con mắt vàng.
“Ô.” Nó thốt lên.
Tiếng gừ gừ lúc nãy tràn đầy trong tai nó bắt đầu im dần và nó cúi xuống vuốt ve ba cái đầu rực rỡ.
“Điều đó quả là kỳ diệu, Charlie. Suốt đời tôi, tôi sẽ không bao giờ quên.”
Màn sương tan ra, Charlie thấy ông Onimous đang ngồi trên cái ghế Skarpo vừa bỏ trống.
“Chuyện gì vậy ạ?” Charlie hỏi.
“Cậu đã ở đó, cả ông thầy phù thủy nữa.” ông Onimous nói, chồm ra đầy phấn khích. “Chà, cái ông phù thủy, ừm…xuyên thẳng qua người cậu. Xong, ông ta mờ dần, ờm, cho tới khi chỉ còn là một cái bóng và rồi biến hẳn luôn. Phùùù!”
“Có chuyện gì xảy ra với cháu vậy?”
“Cậu á? Cậu vẫn ở lại chỗ cậu đây, Charlie. Cứ đứng trơ ra như một tảng đá và nhìn trừng trừng vô bức tranh. Nhưng lũ mèo thì lại khác. Chúng di chuyển không ngừng. Chúng luẩn quẩn quanh chân cậu, cứ gừ gừ và hát lên theo cái kiểu trước giờ tôi chưa bao giờ nghe thấy.”
“Cháu nghĩ chúng đã đi cùng với cháu,” Charlie nói. “Ý cháu là chúng đi cùng với tâm trí cháu khi cháu vút đi.”
“Vậy à, hừm, tôi không cho là chúng làm được như thế.”
Charlie không nhắc tới cuộc gặp gỡ con báo và người đàn ông mặc áo thụng đỏ. Điều đó quá riêng tư và quý giá, tới nỗi nó không tìm được lời để diễn tả. Thay vô đó, nó quay qua Ông cậu và thấy ông ngủ mê man.
“Ông cậu Paton có trông thấy những gì xảy ra không?” Charlie hỏi.
“Tội nghiệp, ông ấy lịm đi trước khi thầy phù thủy từ biệt chúng ta,” ông Onimous nói. “Ông cậu của cậu bị bệnh rất nặng, Charlie. Thật thảm thương khi chứng kiến một người thông minh và dũng cảm ra tới vậy.”
“Cháu muốn giúp ông cậu.” Charlie quả quyết. “Và cháu sẽ làm. Skarpo bảo Ông cậu phải tắm bằng cây gì đó như cỏ roi ngựa. Ông nghĩ cháu có thể kiếm nó ở đâu?”
“Ừm,” ông Onimous lấy tay day day cái cằm đầy râu. “Để tôi hỏi xem, Charlie. Giờ tôi đi đây. Chúc may mắn”
Với bộ điệu thần tốc như thường lệ, ông Onimous nhảy phắt ra khỏi ghế, ào ra khỏi cửa phòng và phóng ào xuống lầu trước khi Charlie kịp nghĩ ra một câu hỏi khác.
“Chào tạm biệt hai bà Bone.” Ông gọi khi rời ngôi nhà cùng với những con mèo rực rỡ nhảy cẫng đằng sau.
“Chúng đi rồi hả?” Nội Bone la lớn.
“Phải ạ, nội,” Charlie thở dài nói.
Nội Bone hiện ra ở ngưỡng cửa.
“Đi hết rồi hả?” Bà nói. “Mày hiểu ý tao chứ?”
“Phải, ông ấy cũng đi luôn rồi.”
“Đội ơn chúa.” Bà ta thụt trở lại vô phòng mình và đóng cửa cái rầm.
Charlie ra bàn dùng bữa cùng với mẹ, nhưng suốt bữa ăn, tâm trí nó cứ vương vất mãi về cuộc hành trình xuyên cửa sổ của thầy phù thủy. Mình đã gặp Vua Đỏ, nó nghĩ. Và ngài cũng trông thấy mình.Mình đã thấy những con báo và khu vườn họ sống. Charlie lại càng tin chắc rằng Dương Cưu, Sư Tử, Nhân Mã đã dẫn nó tới khu vườn xa xăm đó. Nhưng tại sao? Và bằng cách nào?
“Con nghĩ gì mà mải mê thế, Charlie.” Mẹ nó hỏi.
Charlie ngần ngừ: “Con đang suy nghĩ xem mình có thể lấy cỏ roi ngựa ở đâu.”
“Cỏ roi ngựa? Đó là một loại cỏ hay thảo mộc gì đó, nhưng mẹ chưa thấy bao giờ.Con cần nó để làm gì vậy, Charlie?”
“Để giúp ông cậu Paton.”
“Ồ.” Mẹ nó nhướn mày lên nhưng chẳng hỏi gì thêm.
Tối khuya hôm đó, Charlie mang khay đồ ăn lên phòng Ông cậu. Nhưng Ông cậu không hề đụng tới cái khay. Căn phòng chìm trong bóng tối, nên Charlie thắp ngọn đèn cầy dựng ở bàn làm việc của ông cậu.
“Ông cậu cố ăn đi mà.” Nó nài nỉ. “Con nghĩ rằng ông cậu sẽ khỏe cho coi.”
Ông cậu Paton quay đầu đi.
“Xin lỗi, Charlie. Ta nghĩ ta sắp tàn rồi. Ta cảm nhận điều đó trong đầu, trong xương, và trong linh cảm của ta. Lão ta đã kết liễu ta rồi.”
“Nhưng lão đã làm gì.” Charlie gào lên. “Và lão ấy là ai?”
Ông cậu vẫn thường không chịu nói. Bằng giọng ngắt quãng, ông thều thào nói:
“Julia có lại thăm ta không?”
“Con nghĩ là không.” Charlie buột miệng.
“Ôi.” Ông cậu Paton não nề.
“Có thể cô ấy tới trong khi con đi học.” Charlie đoán chừng, hối hận vì sự vô ý của mình. “Thật ra là con tin cô ấy có tới, nhưng chắc chắn là nội Bone không cho cô ấy vô.”
“Không phải.” Ông cậu Paton thở dài. “Cô ấy quên ta rồi.”
Charlie chẳng nghĩ ra cái gì để nói. Nó phân vân không biết có nên kể cho ông cậu về chuyện nó đã gặp Vua Đỏ không. Có lẽ chuyện này sẽ làm ông cậu vui lên, nhưng nó vẫn không thể lựa được lời để nói về chuyện đó.
“Ông cậu hãy dùng thử cỏ roi ngựa,” nó nói. “Con nghĩ thầy phù thủy thực lòng muốn giúp ông cậu đó.”
“Cỏ roi ngựa.” Ông cậu Paton làu bàu. “Một loại cây linh thiêng.”
“Ông cậu có biết nó mọc ở đâu không?”
“Trong vườn của bà Eustacia, chắc chắn. Bà ta trồng tất cả những thứ nào mà mày từng nghe nói tới. Nhưng ta khuyên mày đừng có léo hánh đến đấy, Charlie. Đó là một nơi nguy hiểm.”
“Con không sợ.” Charlie nói. “Con đã tới đó rồi.”
“Ôi không, Charlie.” Ông cậu rên rỉ.
Và rồi ông rơi vô một giấc ngủ đầy kích động khác, cứ ú a ú ớ, mắt nhắm nghiền, miệng méo xệch, răng nghiến trèo trẹo.
Tâm trí Charlie đã quyết, bằng cách nào nó cũng quyết vô vườn của bà cô Eustacia. Nhưng trước hết, nó phải tìm hiểu xem cỏ roi ngựa như thế nào đã. Nó không muốn bứt phải thứ cây nào độc địa và chết người; mà nó vẫn không hề nghi ngờ là những thứ cây đó vẫn được trồng quanh vườn bà cô Eustacia.
Sáng thứ Bảy, sau khi mẹ nó rời nhà đi chợ rồi, Charlie tới thăm cô Ingledew. Trong hiệu sách có một bầu không khí phấn chấn và tất bật thật đáng ngạc nhiên. Đó thường là nơi yên tĩnh, nhưng hôm nay, Charlie thấy Olivia, Tancred và Lysander đi lại đĩnh đạc đằng sau quầy, đầu đội những cái mũ lông kỳ dị.
Emma và Tancred được giao nhiệm vụ thiết kế mũ cho vở kịch, và Tancred rủ Lysander đi cùng để cậu ta vui lên. Rõ ràng là chiêu này có tác dụng. Không còn nghe tiếng trống kinh khủng đeo đẳng theo Lysander nữa, thậm chí Lysander còn phá lên cười khanh khách khi Tancred thổi chiếc mũ lông vàng của nó bay lên trần nhà.
“Trông em nghiêm trọng quá vậy, Charlie.” Tancred nhận xét. “Đừng lo, tụi này không quên Ollie đâu. Bọn anh đang lập một kế hoạch, nhưng vở kịch đang cấp bách mà.”
“Chính xác là vở kịch về cái gì vậy?” Charlie hỏi, thắc mắc về những cái nón hoa hòe hoa sói.
“Nó kiểu như một dạng pha trộn giữa Cái hộp quẹt và Mười hai công chúa nhảy múa,” Olivia nói. “Tớ là một trong những nàng công chúa.”
“Thế ai đóng vai lớn nhất?”
“Họ chưa quyết định.” Olivia đáp. “Manfred muốn Lydia Pierman đóng vai chính. Tớ nghĩ hắn có cảm tình với chị ấy. Zelda sẽ ghen tị tới phát điên mất.”
Dì của Emma xuất hiện và nhắc bọn trẻ vui lòng thử nón ở phòng phía sau.
“Cô không muốn khách hàng nghĩ nơi này biến thành cửa hàng quần áo đâu.” Cô vừa nói vừa mỉm cười.
Charlie giải thích nó tới không phải để thử nón, mà vì một nhiệm vụ khẩn cấp thì đúng hơn.
“Để giúp ông cậu của cháu.” Nó nói.
“Ra vậy.” Cô Ingledew cố tỏ ra không quan tâm, nhưng nó cảm thấy điều ngược lại.
“Bà nội của cháu một hai cho rằng cô đang theo đuổi ông cậu Paton.” Cô nói. “Cô muốn tỏ thái độ rõ ràng là cô hoàn toàn không vậy.”
“Vâng ạ.” Charlie nói. “Vấn đề là, tình trạng của ông cậu Paton đang xấu đi. Bây giờ ông không ăn gì nữa.”
“Ô, Charlie, cô không hề biết. Ông cậu Paton đáng thương. Cô phải…cô hối hận quá.” Cô Ingledew đột nhiên kích động.
“Cháu nghe nói tới một loại cây thân thảo, gọi là cỏ roi ngựa, có thể chữa được bệnh cho Ông cậu.” Charlie nói
Cô Ingledew nhíu mày:
“Cháu nghe thấy điều đó ở đâu?”
“Tớ đảm bảo là từ lão phù thủy.” Olivia chen ngang.
“Đúng không?” Emma hỏi. “Đúng không, Charlie.”
“Kể cho mọi người nghe đi.” Tancred thúc giục. “Không anh thổi bứt áo chú mày ra bây giờ.”
Charlie vội túm chặt lấy dây nịt của nó.
“Rồi rồi.” nó đồng ý, miệng cười toét.
“Cô không biết cháu đang nói về cái gì?” Dì của Emma nói. “Và cô cũng không biết chắc mình có muốn biết không.”
“Khổ một cái cháu không biết cỏ roi ngựa nó ra sao.” Charlie nói. “Và cháu nghĩ thế nào cũng có hình của nó ở một trong những cuốn sách tuyệt vời của cô.”
Vừa lúc đó có 2 vị khách bước vô cửa hàng, cô Ingledew bảo bọn trẻ vô kiếm trong đám sách ở trong cửa hàng.
“Tra vần “T” để kiếm cuốn “Thảo mộc với nghề trồng vườn xem.”
Chính Lysander là người kiếm thấy cuốn sách, một phần do nó là đứa cao nhất bọn, và tất cả những sách vần T đều nằm ở quầy trên cùng.
“Đây rồi!” Nó nói, đặt cuốn sách để mở lên bàn, và chỉ vô một bức hình. Cỏ roi ngựa hình như là một loài cây mọc thành bụi, lá màu xanh lá cây – vàng, với những bông hoa li ti màu hoa cà ở đầu những búp chồi.
“Sách ghi rằng, người ta từng tin nó chữa trị được mọi thứ, kể cả tà ma.”
“Thảo mộc linh thiêng.” Olivia đọc ghé qua vai Lysander. “Người La Mã dùng nó để trị bệnh truyền nhiễm, và để ngăn chặn yêu ma, tà thuật.”
“Em biết kiếm nó ở đâu rồi.” Charlie nói, nhìn đăm đăm vô bức tranh.
“Ở ĐU?” Cả bốn cặp mắt đều chĩa vô Charlie.
“Trong vườn của bà cô em.” Nó nói. “Ở Ngách Tối.”
“Bọn này sẽ đi cùng đằng ấy.” Olivia sốt sắng.
“Không cần…” Charlie vừa tính nói…thì Lysander đã cương quyết.
“Cần chứ sao không cần. Tụi này sẽ đi. Anh cần phải làm cái gì đó hữu ích, không thì anh phát khùng mất.”
Charlie buộc phải thừa nhận có bạn đi cùng tới Ngách Tối sẽ tốt hơn, dẫu có lo rằng năm đứa trẻ sẽ gây chú ý ở nơi hoang vắng, im lìm đó.
“Em bị dính với tụi này rồi.” Tancred nói thêm.
Năm người bạn rời tiệm sách, bảo với cô Ingledew là chúng đi kiếm cỏ roi ngựa. Cô thận trọng gật đầu, nhưng vì mải tiếp hai vị khách đang tìm sách nấu ăn, nên cô không thể hỏi bọn trẻ thêm câu nào nữa. Tuy nhiên, khi các khách hàng đã rời khỏi tiệm, nhìn thấy cuốn sách bọn trẻ xem hồi nãy, cô liền mang nó ra phòng ngoài. Đặt nó lên quầy, cô xem kĩ bức tranh vẽ một loại cây rậm lá, có hoa màu tim tím.
“Một loại cây ling thiêng.” Cô lầm bầm đọc. “Tà thuật…yêu ma…”
Cánh cửa mở xịch ra, kèm theo một tiếng “koong” thật to, và hai đứa con gái bước vô tiệm.
“Tôi có thể giúp gì được nào?” cô Ingledew hỏi.
“Chúng cháu không muốn mua sách.” Con bé đẹp hơn, tóc vàng nói. “Chúng cháu đang đi kiếm mấy đứa bạn.”
“Tụi cháu nghĩ tụi cháu vừa thấy bọn nó ra đi khỏi tiệm sách của cô.” Con bé kia tiếp, nó lùn hơn và phúng phính hơn người bạn đồng hành của nó.
“À, vậy các cháu muốn gặp Emma cháu gái của cô.” Cô Ingledew nói.
Hai vị khách giờ đã xộc vô tới quầy, con bé tóc vàng quay ngược cuốn sách để mở lại và đọc.
‘Cỏ roi ngựa. Thú vị làm sao!”
“Ờ.” Dì của Emma nói, đóng cuốn sách lại.
“Vậy, cô làm ơn cho cháu biết Emma và tụi kia vừa đi đâu được không?” con bé mập hỏi.
“Tôi không biết.”
“À! Chúng cháu có hẹn gặp nhau mà.” Con bé tóc vàng nói.
“Tiếc quá!” Cô Ingledew nói.
Cô có linh cảm rõ ràng là hai đứa kia đang nói dối. Cô không thích chúng, nhất là đứa con gái mặt đẹp. Hai mắt nó cứ đổi màu liên hồi, đó là điều gây khó chịu nhất.
“Thôi vậy,” con bé tóc vàng thở dài. “Chúng cháu đi đây, xem có đuổi kịp chúng không.”
Nó nhếch một nụ cười rộng ngoác, nhe cả hàm răng trắng bóng.
“Tạm biệt!” Cô kẹp cuốn sách dưới tay và nhìn hai đứa con gái đi khỏi.
“Chúng muốn cái gì không biết nữa?” Cô lẩm bẩm.
Charlie và các bạn vừa tới Vòng cung Ụ Xám, thì thấy một bóng người xộc ra từ một ngõ hẻm tối dẫn tới khúc cua.
“Bà cô Venetia!” Charlie thì thào với tụi bạn “Lẹ lên! Trước khi bà ấy thấy tụi mình!”
Chúng băng vội qua đường, núp sau cây thông lớn ở giữa khúc cua, trong khi bà Venetia Yewbeam bước đều về phía đường cái. Bà xách một cái giỏ mua hàng bằng da cỡ bự, có in chữ “Y” màu vàng chóe bên hông giỏ. Khi bà ta tới gần, Charlie kéo tụi bạn núp sâu hơn nữa sau tàn cây. Bà cô của nó dừng lại, và trong khoảnh khắc, Charlie tưởng bà sẽ băng qua đường sục sạo. Nhưng sau vài giây, bà Venetia lại đi tiếp.
Khi bà cô nó quẹo vô đường chính rồi, Charlie dẫn cả đám vô con hẻm ảm đạm, mang tên Ngách Tối.
“Nơi gì mà thê lương.” Olivia thì thầm. “Ai mà muốn sống ở đây cơ chứ.”
“Mấy bà cô của mình.” Charlie đáp.
Chúng đi qua những ngôi nhà vô chủ, nơi lũ chuột giật mình phóng ra khỏi thùng rác, và những kẻ lang thang càu nhàu từ những bậc cấp tầng hầm nhớp nháp, và rồi chúng đối mặt với một loạt căn nhà số 13.
“Căn nào?” Lysander hỏi.
“Ừm, bà Venetia sống ở căn cuối. Nếu tính theo tuổi tác thì bà cô Eustacia chắc phải sống ở căn chính giữa,” Charlie đáp.
“Đằng ấy nghĩ bà ấy có nhà không?” Olivia hỏi.
“Không biết.” Charlie nói gọn. “Nhưng còn lâu mình mới gõ cửa hỏi.”
“Vậy làm sao mình vô vườn được.” Emma nói.
Charlie chưa nghĩ tới điều đó. Hên là Tancred đã nghĩ tới rồi.
“Đằng này này!”
Tancred vẫy gọi cả bọn từ một cánh cổng nhỏ có chắn song sẳt. Phía bên kia cổng, một con đường nhỏ chạy giữa nhà số 12 và số 13. Rõ ràng có lối ra những khu vườn phía sau nhà.
Cánh cửa kêu kít một tiếng thật lớn khi chúng bươn bả qua, và Charlie lo lắng liếc vô hông nhà số 13. Nhưng chỉ có 1 cửa sổ. tít trên bức tường cao, lại là cửa sổ có rèm kéo xuống.
Phía sau những ngôi nhà, những mảnh sân và vườn được phân ranh rõ rệt bằng những bức tường đá màu xám cao. Một lối nhỏ hẹp chạy giữa những khu vườn của Ngách Tối và vườn của những khu nhà khác trong vòng cung. Nhưng, không giống như tường của những căn nhà khác, tường của mấy căn nhà số 13 không có cổng.
“Em phải leo vô đi.” Lysander bảo Charlie. “Em có thể đứng lên lưng anh này.”
“Còn tụi này cảnh giới.” Emma nói.
“Anh sẽ đi cùng em.” Tancred nói.
“Không để em.” Olivia hét lên. “LÀM ƠN MÀ!”
“Suỵt!” Charlie nhắc nhở, “cả hai cùng đi.”
Ngay khi Charlie leo lên lưng Lysander và leo lên tường, nó nhận ngay ra là nó cần thêm 2 cặp mắt nữa để phụ tìm kiếm. Khu vườn bạt ngàn cây. Những loại thân thảo, loại có hoa, loại cây bụi và loại cỏ dại mọc san sát bên nhau trong khuôn viên những bức tường. Một thảm thực vật thật sự.
“Chao!” Olivia thốt lên khi trông thấy khu vườn. “Tụi mình phải bắt đầu từ đâu đây?”
Chúng quyết định sẽ đi thành hàng, khởi đầu tìm kiếm từ bức tường, đi dài tới ngôi nhà. Charlie thấy ngay là việc chẳng dễ gì. Cây cỏ ken đặc lên nhau đến nỗi thật khó mà không dẫm lên chúng. Olivia, trong đôi giày tím gồ ghề, tàn phá cây nhiều hơn tụi con trai. Con nhỏ cứ hết trượt vô những bụi cây lớn nhất lại đạp vào những bụi cây thanh mảnh nhất. Charlie cố không nhìn Olivia, mà tập trung hướng mắt vô đám cây trước mặt.
Thỉnh thoảng một đứa trong bọn lại phấn khích reo lên. “Đây rồi!”, “Thấy nó rồi!”, và rồi lại “Ồ, không phải!”
Khi chúng tiến tới gần ngôi nhà, Charlie bỗng nghe thấy cái gì rơi xuống bức tường chắn giữa vườn nhà Eustacia và sân nhà kế bên. Nó nhảy qua những lùm cây cuối cùng để xem đó là cái gì.
Một viên đá màu xám, trơn láng đậu trên mặt tường. Trông nó quen đến lạ lùng. Và rồi Charlie chợt nhớ ra.
“Thầy Boldova.” Nó lẩm bẩm. “Những viên đá phát sáng.”
Nhưng viên đá này là từ vườn nhà bà Eustacia hay từ nhà bà cô Venetia kế bên?
“Em kiếm ra rồi à, Charlie?” Tancred khào khào, thì thào gọi.
“Không, em…”
Có tiếng huýt sáo lanh lảnh từ bức tường và Lysander gọi:
“Coi chừng,Charlie. Có cái gì đó ở trong nhà.”
Charlie nhìn lên tòa nhà im ắng, ám đầy bồ hóng. Từ đây, nó nghe thấy những tiếng nói. Cánh cửa sổ trên cùng đóng lại cái “thình”, và tất cả bọn chúng đều nghe thấy tiếng bước chân chạy vội xuống cầu thang.
“Tụi mình ra hết mau.” Olivia nói.
“Nhưng tụi mình chưa tìm thấy cỏ roi ngựa.” Charlie lừng khừng.
“Quên đi.” Tancred nói. “Hôm khác bọn mình sẽ tới.”
Nhưng có thể sẽ không có ngày khác. Charlie quyết không bỏ cuộc. Nó quay người lại, đảo mắt liên hồi và ngó chằm chằm vô những bụi cây, trong khi bọn bạn hối hả chạy về phía bức tường.
“Coi chừng!” Tancred hét khi cánh cửa nhà sau bật mở.
Và rồi Charlie trông thấy bụi cây, gần như ngay dưới chân nó. Không có thời gian mà tỉa cành hay lấy búp, nó giật mạnh, nhổ nguyên cả bụi khỏi mặt đất, để cả rễ.
“Mày làm cái khỉ gì đấy?” Bà cô Eustacia rít lên từ ngưỡng cửa.
Bà ta chạy ào xuống những bậc cấp khi Charlie phóng lẹ qua khu vườn, dẫm bừa lên cây cỏ. Olivia đang bò qua tường thì bỗng có một tiếng “rắc” lớn ngay dưới bàn chân phải của Charlie, và trước khi kịp dừng lại thì nó đã thấy mình trượt dài trên mặt đất.
“Íiii…Ôôô!”
Charlie la lớn, cố túm lấy một bụi cây khẳng khiu. Vô ích. Nó đang lộn nhào càng lúc càng sâu xuống một cái hố đen ngòm.
“Mày không ngó thấy cái bẫy của ta hả, thằng ngu?” Bà cô Eustacia cất giọng khàn đục.
“Charlie, đằng ấy ở đâu?” Olivia gọi.
“Cứu với!” Charlie bấu chặt lấy hai bên thành hố, nhưng đất ở đấy nhớt nhợt những con ốc sên và cỏ cây thối rữa.
Trong tất cả các bà cô, thì bà Eustacia có giọng cười ma quái nhất. Tiếng cười của bà khành khạch thật độc địa.
“Ha! Ha! Ha!”
Bà ta đứng sừng sững ngay bên trên Charlie, và nó trông thấy quang cảnh gớm ghiếc là đôi vớ màu nâu cùng đầm lót màu đen.
Nó vội nhắm tịt mắt lại, mồm la yếu ớt:
“Cứu tôi với!”
“Quá trễ mà cứu với kiếc!” bà Eustacia cười ngạo nghễ. “Mày bị kẹt như một con chuột mắc bẫy, Charlie Bone. Giờ tao phải làm gì với mày đây?”
Charlie nhìn lên.
“Mấy bà già không được làm vậy với con nít.” Nó bướng bỉnh trả treo.
“Không được à? Nhưng tao thì được!” bà cô của nó cười khùng khục. “Và nếu mày…”
Bất thình lình, giữa chừng câu nói, bà cô Eustacia bay vọt lên không. Cảnh tượng thật đáng sửng sốt. Khi Charlie nhìn lên thì cái thân hình đồ sộ đã ở trên trời, rồi biến mất vô một đám lá cây. Giờ thì Charlie nghe thấy tiếng gió gào trên đầu, cuốn cành cây, đất lá, bụi rậm và những cành cây nhỏ vô một cơn lốc xoáy dữ dội.
“Tancred.” Charlie thở gấp khi thấy bốn bàn tay xòe về phía nó.
“Leo lên, Charlie.” Giọng Tancred phát ra, mặc dù Charlie không trông thấy cậu ta qua những đống xà bần bay vù vù.
“Tancred đang giữ chân con dơi già.” Olivia bảo “nè, lẹ lẹ coi.”
Nhưng Charlie không thể nào với tới những bàn tay đang vẫy kia.
“Mình không lên được! Không lên được!” Nó thét.
Thêm hai bàn tay nữa xuất hiện, một bàn tay rắn chắc, rám nâu, có thể vươn sâu xuống hố.
“Nhảy lên đi, Charlie.” Giọng Lysander. “Hích lên coi, anh chàng. Ra khỏi đó mau.”
Lần này Charlie cạp bụi cỏ roi ngựa vô giữa hai hàm răng và nhảy lên, nhắm tới đôi bàn tay nâu. Hai bàn tay chụp lấy nó và từ từ, nó leo lên.
Tancred và Olivia cùng túm lấy một cánh tay của Charlie, trong khi Lysander túm cánh tay kia. Dần dần, Charlie được lôi lên tới miệng hố. Nó nghe thấy một tiếng hét bị chẹn lại đâu đó đàng xa, và khi bò lên được, quăng mình vô cơn gió, nó thấy chắc chắn là bà cô nó, bị bọc trong đống lá cây, đang giãy giụa chống lại làn gió đang gào thét trong khu vườn bà ta.
“Ngừng lại!” Cái đống xanh lá cây thét vang khi Charlie và bọn bạn lao ra phía bức tường.
Lysander đẩy mông Charlie một cái, và cả bọn rớt tòm xuống con hẻm, cùng phá ra cười bò.
“Chuyện gì xảy ra vậy?” Emma hỏi, nó quá lùn nên không trông thấy gì phía bên kia bức tường.
“Tancred tung bảo bối ra, làm bà cô Charlie trông như một đống phân trộn.” Olivia nói.
“Bà ta sẽ trút cơn giận lên bồ cho coi, Charlie.” Emma nói. Vì quá lo lắng nên nó chẳng còn nhìn ra cái gì tức cười nữa.
Không nghĩ tới chuyện đó thì tốt hơn, Charlie nhả bụi cỏ roi ngựa ra khỏi miệng, phun bùn ra và phủi bụi đất khỏi người, rồi cả bọn chạy ngược lại con đường nhỏ vô Ngách Tối. Ra tới đó, Emma, là đứa duy nhất biết nghĩ xa, lôi ra một túi ni – lông từ trong túi và đưa cho Charlie.
“Tụi mình biết làm gì nếu không có bồ?” Charlie nói, thả bụi cỏ roi ngựa đầy bùn vô trong bịch.
“Nó có cả rễ.” Emma nhận xét. “Bồ có thể trồng nó được đó.”
“Mình phải coi xem nó có hiệu nghiệm không đã.”
Chúng lao như bay qua Ngách Tối và ló ra ánh nắng mặt trời của Vòng Cung U Xám. Sự thay đổi nhiệt độ thật sâu sắc. Sau lưng chúng là một nơi mà ánh mặt trời chưa bao giờ chạm tới.Một nơi hiu quạnh, bị bỏ quên, với những phiến đá lạnh tanh và những mảng tối u ám. Tất cả bọn trẻ đều bất giác rùng mình và ngửa mặt lên ngó mặt trời.
Thế rồi Tancred hỏi:
“Charlie này, lúc bà cô của em chạy qua cửa thì em đang nhìn cái gì thế?”
Charlie hầu như quên béng viên đá. Charlie rút viên đá từ trong túi quần ra.
“Cái này này.” Nó nói.
Tất cả nhìn vô viên đá xám, nhẵn nhụi nằm trong lòng bàn tay của Charlie.
“Trông quen quen.” Lysander nhận xét.
“Em đảm bảo nó của thầy Boldova.” Charlie nói. “Mấy hòn đá phát sáng trong lòng bàn tay thầy trông cũng giống như thế này.”
“Đúng rồi.” Olivia nói. “ Nhưng sao nó lại lọt vào khu vườn của bà cô đằng ấy.”
“Có người nào đó ném nó xuống từ một cửa sổ.” Charlie nói. “Mình nghĩ bà ta đã đánh cắp nó.”
Tất cả đều nhất trí rằng khả năng đó có thể xảy ra. Tuy nhiên, ai đã ném viên đá đó? Tại sao họ lại ném? Đó là một câu đố.
“Có quá nhiều câu đố.” Lysander nói. “Tụi mình hẹn gặp nhau ngày mai nha? Và bàn luận vấn đề Ollie luôn.”
“Thế còn Ông cậu Charlie thì sao?” Emma nhắc cả bọn. “Nhỡ mà cỏ roi ngựa không có tác dụng thì làm thế nào?”
“Mình sẽ làm bất cứ điều gì.” Charlie nói
Khi chúng ra tới đường cái, năm người bạn tóa ra, và Charlie chạy về nhà cùng với cỏ roi ngựa chiến lợi phẩm. Nó nôn nao không thể chờ nổi xem cỏ có công hiệu hay không. Trước tiên nó sẽ băm nhỏ một ít lá cỏ roi ngựa ra và pha cho Ông cậu nó một cốc trà cỏ roi ngựa. Nó phóng lẹ lên những bậc cấp nhà số 9, mở cửa ra và…tông thẳng vô nội Bone.
“Mày có cái gì đó?” Nội nói, ngó cái bịch nhựa lom lom.
“Chẳng có cái gì… È, mấy trái cây mang từ cửa hàng của mẹ về.” Charlie nói phịa.
“Láo! Tao thừa biết mày vừa làm cái gì. Eustacia đã gọi cho tao. Mày là đồ ăn cắp!”
“Không phải!”Charlie lùi ra khỏi cánh cửa để mở.
“Đưa cái bịch cho tao!” Nội Bone ra lệnh.
“Không!” Charlie thét lên.
Nội Bone giơ tay giật lấy cái bịch, đúng lúc đó, một con chó vàng tổ chảng lao ù lên những bậc cấp và nhảy lên người bà nội của Charlie, xô bà lui vô nhà.
“Hạt Đậu!” Charlie la lớn. Nó lao xuống những bậc cấp, có con Hạt Đậu bám theo sát gót, trong khi nội Bone gầm rú từ trong nhà ra:
“Đứng lại! Về coi! Chờ coi, Charlie Bone! Mày đừng hòng thoát khỏi tao!”
Charlie chạy suốt con đường, thở hồng hộc:
“Hạt Đậu, mày từ đâu tới vậy? Mày đã cứu mạng tao!”
Và nó chợt trông thấy Fidelio, đang chạy như bay tới chỗ nó.
“Hây, Charlie!” Fidelio gọi to. “Hạt Đậu bỏ anh chạy mất! Anh nghĩ nó quá sức muốn giúp em!”
Hai thằng bé trò chuyện giữa đường Filbert, và Filedio giải thích là nó vừa tới quán Café Thú Kiểng, hy vọng sẽ gặp Charlie, ai dè gặp phải ông Norton Cross, và ông ấy cứ nằng nặc bắt nó phải đưa Hạt Đậu đi dạo.
“Em quên mất.” Charlie nói. “Thiệt tình em cứ quên hoài. Xin lỗi mày nhé, Hạt Đậu.” Nó vỗ vỗ cái đầu bờm xờm của con chó.
“Vậy nãy giờ em đi đâu? Có chuyện gì thế?” Fidelio hỏi.
Charlie thuật lại chuyến đi tới Ngách Tối và lý do nó phải bứng trộm cỏ roi ngựa của bà cô.
“Phải chi anh cũng tới đó nhỉ.” Fidelio nói, hơi buồn vì bị gạt ra ngoài mọi chuyện. “Em tới nhà anh đi, trong khi đợi bà nội em nguội bớt.”
Charlie nghĩ ý này thật là hay.
Hạt Đậu không nghĩ như vậy, nhưng nó quá vui mừng khi gặp lại Charlie, và nó được chuẩn bị tinh thần để chịu đựng cái nơi mà nó cho là ồn ào nhất thế giới.
Bảy anh chị em của Fidelio, tất cả đều chơi những loại nhạc cụ khác nhau, và vào bất cứ thời điểm nào cũng có ít nhất năm người trong họ đang luyện tập. Thêm vào đó còn có tiếng kèn đồng rộn rã và giọng nữ cao vút của ông bà Gunn. Tất cả hợp thành một âm thanh giống như là tác phẩm của một nhà soạn nhạc dám có những thử nghiệm táo bạo nhất.
“Tụi mình lên lầu đi.” Fidelio hét to ngay khi chúng vừa vô trong nhà. “Ở đó yên lặng hơn.”
Hạt Đậu lê bước lên cầu thang, theo sau hai thằng bé, co rúm lại mỗi khi đi ngang qua một căn phòng có tiếng trống thình thình, tiếng kèn trumpet, tiếng tù và rống lên, hoặc tiếng kèn xen–lô cò cưa vọng ra.
Ở tầng trên cùng của ngôi nhà, có một gác mái tối, nơi gia đình Gunn chứa những nhạc cụ hư gãy. Hai đứa ngồi yên vị trên một cái thùng gỗ lớn, và Charlie kể cho Fidelio cặn kẽ hơn về cách nó giải quyết vấn đề thầy phù thủy Skarpo. Nhưng nó thấy nó vẫn chưa sẵn sàng kể cho thằng bạn thân nhất về cuộc hành trình ra bờ biển của mình.
Fidelio trầm tư lắng nghe câu chuyện của Charlie, rồi nói:
“Bữa nay em nên tránh xa bà nội em ra. Tụi mình sẽ đem những cái cây này vô nước để nó khỏi chết.”
Chúng lại đi xuống cầu thang, ngang qua những đứa trẻ mặt đầy tàng nhang và tóc nâu loăn xoăn.Và tất cả bọn chúng đều vỗ vỗ con Hạt Đậu và hồ hởi chào đón Charlie như đón một người anh em mất tích lâu ngày. Hai đứa đi vô nhà bếp, chỗ bà Gunn vừa hát vừa làm bánh mỳ kẹp chuối và pha nước chanh thứ thiệt.
“Trông có vẻ là một loại cỏ thần dược.” Bà thốt lên khi Charlie lôi cỏ roi ngựa ra khỏi bịch nhựa.
“Con có muốn đặt nó vô một cái chậu không?” Bà nói.
“Mẹ ơi, thật ra thì Charlie muốn giấu cái cây này khỏi bà nội nó.” Fidelio nói. “Cho nên, ở trong chậu không có đất cho nó đâu. Nó không phải cỏ dại, mà là một thứ thảo mộc rất đặc biệt.”
“À há.” Bà Gunn ngâm nga. “Chúng ta vẫn có thể trồng bằng rễ của nó. Charlie, bác sẽ tỉa cho con vài lá dấu dưới áo sơ-mi mang về. Phần còn lại thì cứ để ở đây khi nào con cần tới nó.”
Charlie trao cỏ roi ngựa cho bà Gunn và nhận hai ổ bánh mỳ chuối (một cho nó và một cho con Hạt Đậu), sau đó nó và Fidelio mang con chó vàng ra công viên cho rộng cẳng.
Vào lúc 4 giờ, sau vài chiếc bánh mỳ kẹp nữa (phomat Stilton, bơ đậu phộng, trứng và quả lý chua), Charlie rời Mái Ấm Gia Đình Gunn và đem Hạt Đậu trở về quán Café Thú Kiểng. Nó hứa với ông Norton là ngày hôm sau sẽ gọi điện lại, nhưng giờ nó lo quay về nhà trước khi mẹ nó gặp phải nội Bone đang giận dữ.
Tuy vậy, khi Charlie về đến nhà số 9 thì nội Bone đã rời nhà, và mẹ nó đang định pha cho Ông cậu một tách trà.
“Để con làm cho, mẹ.” nó nài nỉ.
Nó lôi một vài búp cỏ từ dưới áo thun ra và đặt lên bàn.
“Con muốn Ông cậu thử uống một ít cỏ này.”
Cô Bone nhíu mày.
“Con kiếm nó ở đâu vậy, Charlie?”
“Từ vườn của bà cô Eustacia.” Nó thú nhận. “Đúng ra là con đã bứng trộm, và chắc sẽ có một chút rắc rối đấy.”
Mẹ nó cười, vẻ lo lắng.
“Chắc chắn rồi.” cô nói. “Hy vọng là nó có tác dụng trước khi bà nội trở về.”
Rồi cô ngắt ra vài lá, để vô một cái tách, và đổ đầy nước sôi vào.
Charlie nhìn làn nước chuyển sang màu xanh lá cây tươi sáng. Trông màu nước thật nguy hiểm. Liệu thầy phù thủy Skarpo có lừa họ?
“Mẹ mong là nó lợi nhiều hơn hại.” cô Bone bảo. “Coi bộ nó có đặc tính rất mạnh.”
“Đây là cơ may cuối cùng của Ông cậu Paton, mẹ à.” Charlie nói liều.
Nó chờ cho trà cỏ roi ngựa nguội bớt, rồi đem tách trà lên phòng cho Ông cậu, cùng với số cỏ còn lại kẹp dưới nách.
Ông cậu Paton đang nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Những bức rèm được kéo xuống, và nhìn luồng ánh sáng heo hắt lọt vô phòng, không ai có thể đoán được rằng ngoài kia là một buổi chiều hè nắng gắt.
Charlie đặt tách trà lên đầu giường Ông cậu và thì thào:
“Ông cậu Paton, con mang trà cho ông cậu nè.”
Ông cậu Paton rên rỉ.
“Làm ơn nhấp một ngụm đi. Nó sẽ làm Ông cậu khỏe hơn.” Charlie nói.
Ông cậu Paton chống một cùi trỏ, nhổm người lên.
“Đây.” Charlie chìa tách trà ra.
Mắt ông cậu Paton vẫn nhắm lơ mơ, và bàn tay ông run rẩy khi cầm lấy cái tách. Charlie nhìn trân trối ông cậu nó nâng tách trà lên môi.
“Nào.” Charlie thúc giục. “Uống đi.”
“Bất cứ ai cũng sẽ nghĩ mày đang cố đánh thuốc độc ta.” Ông cậu Paton phát ra một thứ âm thanh nghẹn ứ, ngồ ngộ, mà chắc hẳn là một tiếng cười phá lên.
“Con đang cố giúp Ông cậu mà.” Charlie thì thào đầy nhiệt thành.
Ông cậu nó mở hẳn mắt ra và nhìn Charlie.
“Tốt.” Ông nói, đoạn hớp lấy một ngụm trà.
“Ợợ! Cái gì thế này?”
“Cỏ roi ngựa đó.” Charlie đáp. “Ông cậu có nhớ thầy phù thủy Skarpo đã nói rằng nó có thể chữa khỏi cho ông cậu không. Con có mang theo chỗ còn lại đây này.”
Nó đặt mấy cành cỏ có cả lá lên giường Ông cậu.
“Trông như cỏ dại.” Ông cậu quan sát. “Ta có thể đoán chắc chắn mày vừa mới ở đâu về, Charlie.” Ông cười khà khà rồi nhấp thêm một ngụm nữa, một ngụm nữa.
Charlie chờ trong khi Ông cậu uống cạn tách trà.
“Không tệ.” ông cậu Paton lầm bầm. “Không tệ chút nào. Chúa phù hộ cho mày, Charlie.”
Ông nằm lại xuống gối và nhắm mắt lại.
Charlie đón lấy cái tách không từ tay ông cậu và rón rén ra khỏi phòng.
“Có tác dụng không?” Cô Bone hỏi ngay khi Charlie trở lại nhà bếp.
“Con không biết, mẹ. Nhưng Ông cậu có vẻ dịu hơn. Phải đợi một lúc mới biết chắc được.”
Hai mẹ con bỗng nói chuyện thật khẽ và di chuyển thật nhẹ nhàng hết sức. T.V là dẹp, không bàn tới. Như thể không khí trong nhà bỗng tràn ngập tâm linh huyền bí và mong manh, mà luồng gió nhẹ nhất hay âm thanh nhỏ nhất cũng có thể phá vỡ.
Trời sập tối dần, nhưng nội Bone vẫn chưa về nhà. Charlie tưởng tượng ra một cuộc họp đang diễn ra trong Ngách Tối. Có thể họ đang bàn kế hoạch đặt nó vô đúng vị trí, một lần rồi thôi. Nó liếc nhìn mẹ, đang đọc sách ở bàn bếp, và hy vọng rằng cho dù có chuyện gì xảy ra với nó chăng nữa, thì cũng sẽ không làm đau lòng mẹ nó.
Thình lình, cô Bone ngước lên khỏi trang sách.
“Con có nghe thấy không?”
Charlie có nghe. Ở trên lầu, một cánh cửa đang mở ra. Ván sàn rung cót két. Một thoáng sau có tiếng nước chảy. Bồn tắm đang hứng nước.
Khi vòi nước ngừng chảy, không gian im ắng tới độ Charlie có thể nghe thấy cả nhịp tim của chính nó. Và rồi, một mùi hương lạ lặng lẽ phủ trùm khắp căn nhà, một mùi hương pha lẫn phép thuật.
KẾ HOẠCH CỦA LYSANDER
Charlie mở choàng mắt ra và nhìn vô đồng hồ treo tường trong nhà bếp. Đúng nửa đêm. Mẹ nó đang cạo một cái xoong trong bồn rửa chén.
“Mẹ cũng vừa tỉnh dậy,” mẹ nó nói và đặt hai ly ca cao lên bàn. “Mẹ không biết chuyện gì xảy tới với mẹ con mình, Charlie.”
“Ông cậu Paton tắm.” Charlie nói. “Con nhớ là con nghe thấy tiếng nước chảy, xong con ngủ mê đi.”
“Mẹ cũng vậy,” Mẹ Charlie nói. “Bà nội con vẫn chưa về. Thôi mẹ con mình đi ngủ đi, trước khi bà về.”
Hai mẹ con uống ca cao rồi lên lầu. Khi Charlie đi ngang qua phòng của Ông cậu, nó dừng lại lắng nghe. Tuyệt nhiên chẳng có động tĩnh gì trong phòng Ông cậu. Ngay cả tiếng ngáy cũng không. Charlie nhẹ nhàng đi vô phòng nó, nhíu mày lo lắng.
Nó vừa ngả xuống giường, thì chợt nghe thấy tiếng xe hơi đỗ xịch bên ngoài. Một tiếng cửa đóng sầm và tiếng nội Bone oang oang:
“Chúc ngủ ngon, Eustacia. Cứ để ta nắn cái thằng ôn dịch đó, đừng lo.”
Charlie kéo tấm trải giường trùm kín đầu và cố không nghĩ tới cuộc diện kiến nội Bone vào sáng ngày mai.
***
Charlie thức dậy rất sớm, rón rén đi xuống nhà bếp và chén một tô bắp cốm ngâm sữa. Nó nghĩ tới việc sẽ để lại cho mẹ một mẩu tin nhắn, giải thích rằng nó sẽ đi ra ngoài suốt cả ngày, mặc dù nó vẫn chưa quyết định được là sẽ đi đâu. Bất kỳ điều gì cũng tốt hơn phải giáp mặt nội Bone.
Nhưng đã quá trễ để để lại một mẩu tin nhắn. Quá trễ để chuồn khỏi nhà. Charlie tê cứng lại khi thấy có tiếng hai bàn chân to cộ bước thịch thịch xuống cầu thang. Chúng băng qua hành lang và cánh cửa nhà bếp bật mở.
“Tóm được mày rồi!” Nội Bone đứng sựng ngay trước ngưỡng cửa trong bộ áo choàng tắm màu xám trông gớm guốc.
“Chào bà nội!”Charlie cố hết sức để tỏ ra thật tỉnh bơ.
“Tao đảm bảo mày đang tính rời khỏi nhà trước khi tao tỉnh dậy.”
“Đâu…đâu có!”
“Đừng có láo. Mày rầy rà to rồi Charlie Bone.”
Nội Bone hùng hổ đi vô nhà bếp và quắc mắt ngó xuống Charlie.
“Mày đã làm gì với khu vườn của em gái tao, hả? Mà thôi, đừng mất công trả lời làm chi. Mày ăn cắp chứ còn cái gì nữa. Đám bạn mày cũng chẳng khá hơn. Eustacia đang bị sốc kinh khủng. Suýt nữa thì lên cơn đau tim.”
“Con xin lỗi.” Charlie lúng búng.
“Xin lỗi, xin lỗi cái gì. Mày sẽ phải trả giá!” Nội Bone rống lên. “Tụi tao sẽ báo cáo giáo sư Bloor, và mày sẽ phải ở lại đây cho tới khi chúng tao quyết định xem phải làm gì với mày.”
“Không được ra ngoài?” Charlie hỏi. “Cả đi học cũng không luôn.”
“KHÔNG. Không đi đâu hết ít nhất trong vòng một tháng.”
Bình thường điều này chắc hẳn chẳng làm Charlie lo lắng, nhưng trong tình hình sôi sục như thế này, nó cần phải tới trường. còn có một con trăn xanh da trời để mà thuần hóa. Còn có Ollie Sparks để mà giải cứu.
“Nhưng mà…” Nó há miệng.
“Cả cái con mẹ rách việc ấy nữa.” Nội Bone gầm gừ. “Bắt quả tang một cuốn sách đang nằm trên quầy của mụ ta, mở ngay trang có in hình thứ cỏ mà mày đã đánh cắp.”
Charlie không chắc, nhưng nó nghĩ là nó nghe thấy tiếng thủy tinh bể lắc rắc trong khi nội Bone quát tháo. Nó thắc mắc ai đã nhìn thấy cuốn sách ở tiệm cô Ingledew mà loan tin đó ra, thì nội Bone thình lình đập bàn một cái rầm và thét lên.
“BỌN TA SẼ KHÔNG ĐỂ YÊN! ĐỒ PHÁ RỐI DAI DẲNG, ĐỒ… ĐỒ… TẠI SAO MÀY KHÔNG PHỤC TÙNG, HẢ?”
Charlie đang định thốt một câu trả lời ỉu xìu, thì một giọng nói từ ngưỡng cửa vọng vô.
“Ha.”
Kia kìa, ông cậu Paton đứng đó, trong chiếc áo sơ mi trắng lóa cả mắt. Tóc ông đen gấp 2 lần, đen hơn bao giờ hết, và hình như trông ông cao hơn gần cả tấc. Quả là cao, tới nỗi Ông cậu phải cúi đầu mới chui lọt qua khung cửa.
Nội Bone trông như thể vừa dòm thấy ma vậy.
“Khỏi rồi à,” nội ré lên.
“Bà không vui sao?” Ông cậu Paton nói.
Nội Bone hoang mang liếm môi.
“Nhưng mà…nhưng mà…”
“Tưởng lão ta kết liễu tôi rồi chứ gì.”
Ông cậu Paton vừa nói, vừa tiến lại gần bà chị.
“Tưởng lão đã biết tôi thành một kẻ dạ-thưa dật dờ, run rẩy và sống dở chết dở chắc?”
“Tôi không biết cậu đang nói về cái gì.” Nội Bone nói.
“Bà thừa biết ấy chứ.” Ông cậu Paton gầm lên như sấm. “Chính bà đã mưu tính. Chính bà đã lập tất cả kế hoạch. Bà đã đem con mụ biến hình quỷ quái đó sống giữa chúng ta. Bà nhắm tới cái gì thế, HẢ?”
“Im ngay!” Nội Bone gào. “Tôi…tôi có thể yêu cầu cậu ra khỏi ngôi nhà này!”
“Và tôi cũng có thể yêu cầu bà điều tương tự.” Ông cậu Paton hét vang, đứng cao hơn hẳn bà chị.
Charlie thích chí khi nhìn thấy bà nội nó thở hắt ra, nghẹn ngào, và chạy ra khỏi bếp, hai tay bưng lấy đầu.
Ông cậu cười rạng rỡ với Charlie và bắt đầu tự pha cho mình một tách café.
“Công hiệu rồi,” Charlie nói. “Cỏ roi ngựa ấy. Nó hiệu nghiệm thật rồi.”
“Có cái gì đó đã phát huy tác dụng. Ta cảm thấy tỉnh táo như một cái bóng đèn vậy.”
Ông cậu Paton nói thế, nhưng trông ông chẳng có cái gì giống cái bóng đèn cả.
“Con cứ sợ thầy phù thủy Skarpo lừa chúng ta.” Charlie nói. “Nhưng bây giờ con đã tin ông ấy rồi. Chao! Ông cậu Paton! Thấy ông khỏe mạnh lại con sung sướng quá.”
“Ừ, sướng thiệt. Cảm ơn mày nhé, Charlie.”
Ông cậu Paton làm điệu bộ hơi cúi người xuống và mang café ra đặt lên bàn.
“Nào, mày sẽ kể cho tao nghe tình hình ở Học viện Bloor như thế nào chứ hả?”
Charlie cố hết sức để cập nhật cho ông cậu tất cả những gì diễn ra trong thời gian ông nằm mẹp trên giường. Nó đang tả lại sự việc trong vườn bà cô Eustacia thì có tiếng người dậm thình thình xuống lầu và bước ra khỏi nhà, sập cửa trước thật mạnh lại sau lưng.
Qua cửa sổ, hai người thấy nội Bone bước rầm rập trên phố, đầu đội chiếc nón rơm mới của bà – cái màu đen có gắn những trái anh đào tím lịm.
“Bà ấy tới Ngách Tối đó, chắc chắn.” Ông cậu Paton nói. “Để manh nha một âm mưu khác đấy mà. Ta bảo đảm việc ta bình phục sẽ làm họ sốc kinh khủng, nhất là mụ phù thủy Yolanda.” Ông cậu cười khà khà.
“Ông cậu Paton, Ông cậu có nghĩ bây giờ kể chuyện xảy ra ở lâu đài đó được chưa?” Charlie dò hỏi.
Ông cậu Paton xoa xoa cái cằm và nói:
“Được, Charlie. Cũng tới lúc rồi.”
Ông uống cạn tách café và đặt nó trở lại xuống bàn. Trong một thoáng ông nhìn đăm đăm vào hư không, và rồi bắt đầu:
“Hãy tưởng tượng cái lâu đài như ta đã mô tả – tối bên trong, tối cả bên ngoài. Ta tới vào lúc bình minh, thế mà không bao giờ có thấy mặt trời lên ở lâu đài Yewbeam. Bầu trời ngả sang màu vàng buồn tẻ, không một tiếng chim hót. Gió than khóc bên những tảng đá. Không hề có cây cối, không hề có lá hay hoa, chỉ rặt cỏ chết.”
“Con đường kết thúc ở chỗ cây cầu dành cho người đi bộ, cho nên ta dời xe và cuốc bộ nửa dặm thì tới lâu đài. Mười ba bậc thang khắc hẳn vô trong đá dẫn lên một cánh cửa không bao giờ khóa. Nói cho cùng thì, ai mà muốn héo lánh tới một nơi như thế, hả?”
Ông cậu Paton ngừng lại và vai khom rũ xuống.
“Rồi sao nữa?” Charlie nôn nóng.
“Tất cả bỗng hiện về trong ta, Charlie. Cú ngã khủng khiếp của mẹ ta, rồi cha ta dắt ta chạy trốn. Suýt nữa thì ta quay đầu ù té chạy, nhưng ta cần tìm hiểu xem bà Yolanda đã rời khỏi đó chưa, và tại sao bà ta lại tính xuôi về phía Nam sau ngần ấy năm im tiếng. Ta gọi, nhưng tuyệt nhiên không có ai trả lời.Nơi này cứ như là hoang mạc. Và rồi chuyện bắt đầu xảy ra. Thoạt tiên là tiếng cười ma quái ta chưa từng nghe thấy bao giờ. Giống như tiếng hú thì đúng hơn. Tiếp theo là tiếng gầm, rồi tiếng rú của một ngàn loài thú mà người ta không bao giờ có thể biết hết tên. Và nổi bật trên nền âm thanh khiếp đảm đó, một giọng nói cất lên, “Mày muốn gì, Paton Yewbeam?”
“Ta đứng chôn chân tại chỗ, nhưng ta có thể nói với mày, Charlie, là bụng ta đang bị khuấy tung lên. Ta nói, “Có phải giọng bà Yolanda đấy không?”. “Không phải.” giọng đó đáp. “Yolanda đã nhận một lời mời mà nó không thể chối từ.” Xong rồi chuỗi cười rợn óc lại nổi lên.”
“Ta chạy tới cánh cửa ấy, nhưng có một cái gì đó đẩy ta trở lại. Ta bèn rút cây gậy phép ra và cố chĩa vô cái vật vô hình trước mặt mình, nhưng cây gậy rít lên lèo xèo như đồ vật đang cháy và đốt cháy bàn tay ta. Sau đó rồi thì…”
Ông cậu thở dài và lắc đầu.
“Ta không biết mình đã ở đó bao lâu. Ta nằm sõng sượt trên đá, mù mịt và không bao giờ có thể biết được mình đang tỉnh hay đang mơ. Thân thể ta đang cháy hay là đang đông cứng lại. Thỉnh thoảng ta trông thấy lão, nhưng không lần nào thấy giống lần nào. Mới phút trước lão là đứa trẻ, thì phút sau lão đã là một ông già. Một ngày nọ, hình như có một con chó mực to đùng ở cạnh ta, sau đó là một con gấu. Dường như có một con quạ đã rỉa đầu ta, và một con sói đang kháo xương ta. Nhưng mỗi lần như thế, ngay khi lão biến hóa, ta lại bò tới gần cánh cửa hơn.
“Cuối cùng, ta tới được cửa. Ta ráng nắm vô cái nắm cửa sắt khổng lồ, đứng dậy, xoay nó và té nhào qua cửa. Ta lảo đảo lăn xuống 13 bậc thang, và rồi ta chạy. Đừng hỏi ta chạy như thế nào. Ta có thể cảm thấy lão sau lưng mình, đốt cháy cổ ta, phóng lửa vào giày ta. Ta chạy được tới cái xe và nhảy vô. Cơn ác mộng mới chỉ bắt đầu. Lão nhảy rầm rầm trên nóc xe của ta, dùng nắm đấm dộng bể nát tấm kính chắn gió. Ta không biết lão đang hình dạng gì – căn cứ vào âm thanh nó phát ra, thì ta chắc chắn là một con quái vật. Lão lăn khỏi nóc xe và chạy ngay trước mặt ta, liệng đá tảng vô đèn xe. Lão quăng lửa vô bánh xe, con đường phía trước ta sáng bùng lên hàng ngàn tia lửa.”
“Bọn ta tới một cây cầu khác, và khi ta lái xe qua cầu thì lão rớt mất. Có lẽ quyền năng của lão không thể phát tán ngoài ranh giới mảnh đất của lão.Nhưng ta nghe tiếng lão tru tréo đằng sau lưng. Và ta biết không bao giờ quên được cái giọng hú hét, kinh hồn đó.”
Ông cậu Paton rùng mình và nhắm mắt lại.
Charlie chờ đợi, nhưng rồi nó không chờ đợi được nữa, nên phải nài nỉ:
“Lão nói gì?”
Ông cậu Paton nháng lên một nụ cười kỳ quặc.
“Lão nói ‘Nếu mày mà làm hại đến con gái yêu của tao thì mày sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mày.”
“Lão ấy là ai vây?”
“Ô, ta chưa nói sao?” Ông cậu Panton nhăn mặt “Lão chính là cha của mụ Yolanda, Yorath, lão là một kẻ biến hình già tới nỗi lão không thể giữ được hình hài của chính lão, mà cần phải mượn xác của người khác…à…vật khác.”
Ông cậu nhìn những vết cháy đen trên bàn tay phải của mình và lặp lại:
“Phải, của những vật khác.”
“Trời ơi.” Charlie nói to. “Quá thần kỳ là ông cậu vẫn còn sống.”
Ông cậu gật đầu.
“Thần kỳ thiệt. Ta không biết cái gì giữ cho ta sống, Charlie. Có thể đó là ký ức về mẹ ta và của… một người khác nữa.” ông cậu hắng giọng. “Xem ra mụ Yolanda tới để trợ giúp lão Ezekiel, nhưng bởi vì mụ nhận ra mày có khả năng làm gì đó, cho nên thể nào mụ cũng muốn đem mày trở về, để rồi coi.”
“Về Lâu đài Yewbeam?” Charlie kêu ré lên.
“Chúng ta sẽ không để nó xảy ra.” Ông cậu nói quả quyết. “Nào, bây giờ sang tới nốt nhạc tươi sáng hơn. Mày có việc phải làm đây, Charlie, về kế hoạch giải cứu thằng bé vô hình. Nếu mày hỏi ta, thì Billy Raven là mấu chốt.”
“Billy, nó làm thế nào được?”
“Nó có khả năng nói chuyện với thú vật, phải không? Hãy thuyết phục nó nói với con trăn kia. Mọi chuyện không tới nỗi bi đát đâu.”
Charlie ngồi thừ ra suy nghĩ về chuyện này, trong khi Ông cậu tới bếp lò và tự làm cho mình một bữa sáng thật dồi dào, để đền bù cho những ngày ông nằm một chỗ chẳng ăn gì. Lát sau mẹ Charlie đi xuống từ căn phòng của cô ở lầu trên cùng. Cô không nghe thấy tiếng quát tháo và tiếng sập cửa hồi sáng sớm, nên thấy Ông cậu Paton đi lại linh động và khỏe khoắn hơn bao giờ hết, cô ngạc nhiên tới nỗi suýt nữa thì xỉu.
Chụp vô một cái ghế, mẹ Charlie ngồi xuống và lẩm bà lẩm bẩm.:
“Té ra cái ông lạ lùng trong bức tranh ấy không tệ hại chút nào. Ồ, Ông cậu Paton, cháu rất mừng khi thấy ông bình phục. Tất cả chúng ta sẽ được ngủ ngon giấc hơn rồi, vì Ông cậu đã trở lại là mình.”
Charlie thắc mắc tại sao thầy phù thủy Skarpo lại thôi không là một kẻ lừa đảo xấu tính nữa mà quyết định tỏ ra hữu ích. Có phải đó là khi ông tìm ra cây gậy phép trong tay Charlie? Và nếu như thế thì, tại sao?
Lúc một giờ, Charlie lễ phép từ chối một bữa trưa đặc biệt của Ông cậu Paton, mà ông đã đặt qua điện thoại từ một nhà hàng lớn nhất thành phố, để lên đường tới quán Café Thú Kiểng. Nó có quá nhiều thứ trong tâm trí, không còn đầu óc đâu để thưởng thức một bữa trưa thịnh soạn. Nước cam và bánh quy sẽ tốt chán.
Tất cả bọn bạn của nó đã có mặt, ngồi quây quanh một cái bàn lớn nhất trong căn phòng, cùng với chim, chuột, thỏ, cùng với con mèo điếc của Fidelio – bọn này đang đậu trên vai, trên đầu và trên đùi lũ trẻ. Con Hạt Đậu mừng Charlie bằng những cú liếm, cào và sủa ướt nhẹp nham nhám như thường lệ, cho tới khi Charlie mua một chiếc bánh quy to và thảy xuống gầm bàn cho nó.
“Tất cả sẵn sàng rồi chứ,” Lysander nói, hơi trịnh trọng. “Chúng ta có những vấn đề khẩn cấp cần bàn luận. Tancred và anh đã soạn ra một danh sách, và tụi anh cần ý kiến của các em.”
Nó đặt tờ giấy có những gạch đầu hàng ra giữa bàn. Tờ giấy ghi.
1. Phải tìm thấy con trăn xanh da trời.
2. Phải thuần phục con trăn xanh da trời.
3. Phải đưa con trăn xanh da trời ra khỏi Học viện Bloor tới một nơi mà nó có thể chữa trị cho Ollie.
4. Phải tìm ra Ollie Sparks.
5. Ollie Sparks phải rời khỏi Học viện Bloor trong khi vẫn đang vô hình (như vậy sẽ dễ hơn)
6. Con trăn xanh da trời phải làm cho Ollie hiện hình trở lại.
7. Phải đưa Ollie trở về nhà ở lâu đài lấp lánh.
Tất cả bọn đều ngó chằm chằm vô tờ danh sách, được viết bằng nét chữ đẹp thật đáng khâm phục của Lysander. Chúng chuyền tờ giấy khắp bàn, tới khi tất cả đều đã đọc kỹ lưỡng. Đọc xong, gương mặt đứa nào đưa nấy lộ vẻ hoài nghi hoặc là đăm chiêu hết sức.
“Không đến nỗi bế tắc đâu.” Charlie nói. “Tại vì em biết con trăn đang ở đâu và em có thể tìm thấy nó một lần nữa.”
“Nhưng tụi mình có thể thuần phục nó bằng cách nào?” Emma hỏi.
“Billy.” Charlie nói. “Nó biết nói chuyện với thú vật.”
“Rồi, nhưng làm sao tụi mình thuyết phục được Billy đây?” Olivia hỏi. “Ý tớ là liệu người ta có thích nói chuyện với một con trăn quá khổ, có thể làm mình vô hình được không?”
“Bây giờ mình tin Billy rồi.” Charlie nói. “Mình tin là Billy muốn giúp tụi mình.”
“Rembrandt.” Gabriel nói, vẻ tư lự. “Tụi mình sẽ nói với Billy là nếu nó chịu giúp, thì nó sẽ có Rembrandt. Nó sẽ làm bất cứ việc gì để gặp lại con chuột đó. Nó yêu con chuột lắm.”
“Ý hay đấy, Gabriel.” Lysander nói. “Nhưng với gã Weedon và Manfred luôn canh chừng… đó là chưa kể tới Belle khủng khiếp…vậy thì Billy có thể cất giấu con chuột ở xó xỉnh nào được?”
Charlie nghĩ tới bà bếp trưởng.
“Em biết một chỗ.” Charlie nói.
Nhưng khi cả bọn ngó nó, chờ đợi thêm thông tin, nó chỉ buông thõng một câu:
“Cứ tin em đi.”
“Đuợc rồi,” Lysander nói. “Giờ chúng ta phải tìm cách đưa con trăn ra khỏi học viện.”
“Em có một ý.” Charlie nói. “Và em sẽ thực hiện luôn.”
Đám bạn nhìn nó chằm chặp, với những câu hỏi đã hiện trên môi, nhưng Charlie nói thêm liền:
“Em không nói ra được, nhưng em biết mình thực hiện được.”
Một lần nữa, nó nghĩ tới bà bếp trưởng.
“Giờ tới vấn đề Ollie.” Lysander chỉ vô con số 5 trên tờ giấy.
“Thật ra em đã nghĩ tới điều này.” Emma nói. Con bé hơi đỏ mặt lên khi tất cả bọn quay ra nhìn nó, và rồi nó đặt một con nhện to tướng lên bàn.
Vài tiếng hét lớn buột ra, và một luồng không khí hỗn độn thổi tung tờ giấy khỏi bàn khi Tancred la lên:
“Trời! Cái đó thì giúp được gì?”
“Để nó giải thích coi.” Olivia nói, lượm lại tờ giấy.
“Nó không phải nhện thật.” Emma nói, dí ngón tay vô mình con nhện. “Nó giống như một con rối điều khiển bằng ngón tay vậy, có điều Ollie có thể xỏ ngón chân cái của nó vô con nhện. Thế rồi nó có thể bước qua cánh cửa chính bất cứ khi nào có một nhân viên hay giáo viên đi ra ngoài, và họ chỉ trông thấy một con nhện, thay vì là một ngón chân cái.”
“Hay thiệt!” cả bọn thốt lên, trừ Tancred, rõ ràng nó có lấn cấn gì với nhện.
“Một con nhện nhảy chồm chồm.” Tancred lầm bầm. “Ý anh là sẽ rất khó bước đi giống nhện thật nếu nó ở trên đầu một bàn chân đang bước.”
Lập tức nổi lên tiếng la ó:
“Đừng có kén cá chọn canh thế chứ!”
“Chiêu đó quá tuyệt rồi còn gì!”
“Có cách nào hay hơn không?”
“Sẽ thành công mà.”
“Bồ không cần phải đeo con nhện đó đâu, Tanc!”
“Còn Ollie thì sao?” Tancred tiếp. “Nó sẽ đi đâu một khi nó đã ra ngoài? Tụi mình không có ở quanh đấy để mà giúp nó. Tụi mình không thể đội lốt nhện mà lẻn ra được.”
Olivia nói: “Tụi em, em và Emma, đã nghĩ tới điều đó rồi. Ollie có thể đi tới tiệm sách. Chỗ đó rất dễ kiếm vì nó nằm ngay sát nhà thờ lớn, có thể nhận thấy tiệm sách từ bất cứ nơi nào trong thành phố.”
“Mình đã dặn dì mình nếu thấy ai nhấn chuông sau giờ mở cửa, mà không trông thấy ai ngoài đó…”
“Ngoại trừ một con nhện.” Tancred làu bàu.
“Ừm.” Emma nói tiếp. “Dì mình sẽ chăm sóc cho Ollie cho tới khi tụi mình có thể làm cho nó…hiện hình.”
Tâm trí Charlie đang đua tốc độ. Ông cậu của nó chắc sẽ phải mua ngay một chiếc xe mới. Giả sử ông cậu mua một chiếc xe tải nhỏ thì sao? Kỳ nghỉ giữa học kỳ sắp tới rồi. Liệu có thể thực hiện một cuộc hành trình tới Lâu đài Lấp lánh cùng tám đứa trẻ…và một con chó?
“Anh nghĩ tụi mình đã dàn xếp đủ để bắt đầu chiến dịch nho nhỏ của tụi mình rồi.” Lysander nói. “Bắt đầu từ tối thứ Hai, với vấn đề 1 và 2. Tìm và thuần phục con trăn.”
Charlie thấy có một vấn đề. Làm thế nào để đưa Billy tới chái phía tây mà không bị phát hiện?
“Đánh lạc hướng.” Tancred bảo, xem ra anh chàng đã lấy lại được vẻ điềm tĩnh của mình. “Cứ để đấy cho tụi anh, anh và Lysander. Tụi mình làm được chứ, Sander?”
Lysander gật đầu.
Bọn chúng rời khỏi tiệm Café Thú Kiểng với tinh thần sảng khoái, đứa nào cũng hăm hở chờ đón tuần lễ sắp tới. Trong khoảnh khắc đấy, không đứa nào trong bảy đứa trẻ muốn nghĩ tới những cạm bẫy có thể gặp trên đường thực hiện sứ mạng. Chúng chỉ tưởng tượng ra Ollie Sparks hiện nguyên hình, và cuối cùng đoàn tụ với cha mẹ đang buồn than của nó.
Trong khi bọn bạn đi về nhà để cho bọn thú kiểng của chúng ăn, hoặc để lo liệu cho vở kịch cuối-học-kỳ, thì Charlie dẫn Hạt Đậu đi dạo. Khi nó mang con chó trở về tiệm Café Thú Kiểng thì ông Onimous chợt phóng bật ra từ sau quầy.
“Có việc sắp xảy ra.” Người đàn ông nhỏ thó nói. “Nếu cậu muốn giúp một tay, Charlie, thì cậu biết phải đến đâu rồi đó.”
Charlie cảm ơn ông Onimous và chạy trở lại đường Filbert, nôn nóng muốn biết xem sự bình phục thần kỳ của Ông cậu có còn kéo dài lâu hay không.
Vẫn còn.
Khi Charlie nhìn vô nhà bếp, nó kinh ngạc thấy mẹ nó và Ông cậu đang dùng bữa trà với nội Bone. Có lẽ nói dùng bữa tráng miệng sẽ chính xác hơn là dùng bữa trà. Đó là một buổi chiều oi ả, và Ông cậu Paton đã gọi nhiều hộp kem pha rượu đủ mùi, cũng từ cái nhà hàng lớn đã mang bữa trưa cho ông.
Charlie được mời vô xơi kem với mọi người, và nó ngồi đối diện với nội Bone – đang ngồi hì hục chén một tô kem to sụ, loại có những sọc nâu và xanh lá cây trên đỉnh có trang trí hạt hạnh nhân. Nội không hề liếc nhìn Charlie lấy một cái, mà vẫn cứ lùa lia lịa những thìa kem với tốc độ hai muỗng một giây, theo ước tính của Charlie.
“Sô-cô-la, trái anh đào, rượu rum và quả óc chó? Táo, kẹo bơ, rượu nho và hạnh nhân? Hay là café, cam, rượu whisky và đậu phộng?” Ông cậu Paton hỏi Charlie.
Charlie chọn loại sô-cô-la và bắt đầu thưởng thức. Đó là món kem mê ly nhất mà nó từng ăn. Nó hy vọng sự bình phục của Ông cậu Paton có nghĩa là thêm nhiều đợt kem như thế này sẽ tới căn nhà số 9 mỗi cuối tuần.
Tô kem của nội Bone giờ đã sạch trơn. Nội nhìn cái tô với vẻ hơi buồn, rồi lấy mu bàn tay quệt ngang miệng. Charlie nghĩ hình như nội Bone đã ngà ngà say. Khi đứng lên, nội hơi liểng xiểng đi tới bồn rửa. Nội vẫn chưa nói một tiếng nào, hay thậm chí nhìn về hướng Charlie. Có chuyện gì xảy ra với nội vậy?
“Đó là món ngon nhất cháu từng được ăn, cảm ơn Ông cậu Paton.” Mẹ Charlie bảo.
“Không có chi.” Ông cậu Paton nháy mắt với Charlie khi nội Bone đủng đỉnh và nghiêm trang đi qua chiếc bàn và ra khỏi phòng.
“Có chuyện gì xảy ra với nội vậy?” Charlie thì thầm.
Mẹ nó đặt một ngón tay lên môi.
Charlie cười toét. Chính lúc ấy thì nó để ý thấy cái giỏ mây đặt ngay bên trong cánh cửa. Và cái giỏ khiến nó nảy ra một ý. Đợi cho tới khi nội chân nam đá chân xiêu lên lầu và đóng cửa phòng lại, Charlie hỏi Ông cậu xem cái giỏ đó từ đâu mà có.
“Nó là giỏ mây đựng thức ăn, Charlie.” Ông cậu Paton nói. “Nhà hàng đựng thức ăn gửi tới đây cho ta.”
Charlie chạy lại xem xét. Cái giỏ vẫn chưa trống rỗng hoàn toàn. Vẫn còn một vài hũ mứt, một cái bánh nhân trái cây và hai gói bánh quy bên trong. Charlie lấy ra một hũ mứt dâu hảo hạng hiệu Dâu Ngon Nhất.
“Toàn dâu nguyên chất.” Charlie lẩm bẩm. “Ông cậu Paton cho con cái hũ mứt này nha.”
“Tất nhiên, Charlie. Ta có thể đoán biết nó dùng để làm gì rồi.”
“Cả cái giỏ mây nữa.” Charlie nói. “Ông cậu nghĩ ông cậu có thể yêu cầu nhà hàng gởi tới cho bà bếp trưởng của Học viện Bloor một cái giỏ mây còn lớn hơn cái này nữa được không? Cái lớn nhất mà họ có ấy.”
“Charlie, làm gì vậy con?” Mẹ nó hỏi.
“Charlie có một kế hoạch.” Ông cậu Paton bảo. “Chúng ta sẽ cứ vậy mà làm theo, và không hỏi quá nhiều, Amy.”
Cô Bone lắc đầu. “Hy vọng là nó không xới tung mọi thứ lên lần nữa.” Cô nói. “Chiều nay đã dàn xếp được với nội Bone quá êm thấm rồi.”
“Quá êm thấm.” Charlie lầm bầm. “Và quá im lặng. Có cái gì đó đang ấp ủ, và con thắc mắc mấy bà cô đang định giở trò gì đây.”