Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 12


ĐÊM CỦA GIÓ VÀ CỦA NHỮNG LINH HỒN

Vào thứ hai, Charlie chớp ngay lấy cơ hội đầu tiên để nói chuyện với bà bếp trưởng. Giữa bữa trưa, nó lẻn vô nhà bếp, viện cớ là lấy một miếng nùi giẻ để lau ly nước đổ.

Bà bếp trưởng trông thấy Charlie đứng ở cửa, liền ra chỗ nó ngay. Bất cứ ai quan sát họ chắc hẳn đều sẽ tự hỏi tại sao họ lại bàn tán về giẻ lau nhà kĩ tới thế. Nhưng mấy bà, mấy cô phục vụ bữa trưa quá tất bật nên chẳng nhận ra có gì bất thường. Hầu như Charlie nói từ đầu tới cuối và bà bếp trưởng chỉ thỉnh thoảng lại gật đầu. Cuối cùng, bà vỗ vai Charlie kèm một nụ cười trấn an.

“Cảm ơn bà bếp trưởng!” Charlie nói và rời khỏi nhà bếp… không có giẻ lau.

Billy Raven đang ngồi kẹp giữa Gabriel và Fidelio ở bên bàn, và khi Charlie xà vô nhập bọn, nó nhận thấy Billy có vẻ rất u uẩn. Nhưng thằng bé vốn chẳng vui gì kể từ khi con Rembrandt đi mất.

Chính Gabriel là đứa mào đầu về đề tài con chuột đen.

“Em có muốn gặp lại Rembrandt không?” Nó hỏi Billy.

Billy gật đầu buồn rười rượi:

“Nó là bạn thân nhất của em. Em có thể nói với nó gần như về bất cứ chuyện gì. Nó thiệt là thông minh. Nhưng làm sao em gặp nó được? Họ không cho em ra khỏi đây.”

Đôi mắt ngọc ruby của Billy đầm đìa nước.

“Dàn xếp được vụ đó rồi.” Charlie nói. “Bà bếp trưởng nói sẽ giữ nó giùm cho em, và em có thể gặp nó mỗi cuối tuần. Nhưng em phải hứa là không bao giờ, không bao giờ được nói cho bất kỳ ai biết là nó ở đâu đấy nhé.”

“Em không nói đâu!” Billy nói, và thề. “Xin thề!”

“Nếu bọn anh dàn xếp được việc này cho em thì em phải làm cho bọn anh một việc,” Fidelio nói.

“Em sẽ phải làm gì?” Billy lập tức tỏ vẻ lo lắng.

Charlie đề nghị bọn chúng nên thảo luận vụ việc ở bên ngoài.

Olivia và Emma đang ngồi dưới một gốc cây thì thấy Charlie và lũ bạn đi qua cửa vườn. Mấy đứa con gái tính chạy lại nhập bọn, nhưng rồi thấy có cả Billy đi cùng, chúng quyết định ngồi tại chỗ hơn là can thiệp vô một tình huống có vẻ căng thẳng.

Mặt Billy tái mét. Nó lắc đầu liên tục và hồi hộp cắn cắn móng tay. Sau đó Gabriel nói cái gì đó và Billy bình tĩnh trở lại. Nó cười một cái, vẻ cam chịu, gật đầu xuống và cứ thế giữ yên cái đầu.

Khi tiếng còi đi săn rúc lên, hai đứa con gái chạy bổ về phía Charlie trước khi nó bước vô tiền sảnh.

“Có chuyện gì với Billy vậy?” Olivia hỏi liền.

“Nó chịu làm rồi,” Charlie thì thào. “Tối nay sẽ tiến hành. Đừng có rời phòng ngủ chung và nhớ để mắt tới Belle.”

Emma lẹ làng đưa cho Charlie con nhện.

“Bồ sẽ cần tới cái này,” nó nói.

Suốt thời gian còn lại trong ngày hôm đó, Charlie thấy khó mà tập trung vô cái gì khác ngoài buổi tối sắp tới. Nó biết là nó sẽ phải chờ ít nhất là tới nửa đêm thì nó và Billy mới có thể lên đường đi tìm con trăn xanh da trời. Rủi Billy không liên lạc được với con trăn thì sao? Rủi con trăn quấn cả hai đứa thành vô hình thì sao? Và sau đó rồi sao?

Sau giờ làm bài tập về nhà, Charlie đuổi kịp Lysander và Tancred trước khi hai anh lớn này vô phòng ngủ chung.

“Đêm nay các anh sẽ ra tay chứ?” Nó hỏi. “Billy đồng ý rồi.”

“Tụi anh sẽ lo phần việc của mình,” Tancred bảo. “Mấy giờ?”

“Nửa đêm.”

“Anh hy vọng là chúng ta không làm cho thằng bé sợ,” Lysander bảo. “Tổ tiên anh trông có thể dữ tợn lắm.”

“Em sẽ nói vớI Billy là anh đang kiểm soát mọi việc.” Charlie nói.

“Tuỳ ý em,” Lysander bật cười lớn.

Zelda Dobinski tình cờ băng sượt qua bọn chúng đúng lúc đó. Nó ném cho bộ ba kia một cái nhìn quỷ quyệt, và “hất” một trong những tập bìa đựng giấy vẽ của Tancred bay tuốt lên trần nhà. Một đám mây giấy rời bung ra, bay lả tả khi chiếc cặp giấy rớt bịch xuống sàn.

“Con nhỏ cứ nghĩ là nó tài giỏi ghê lắm,” Tancred vừa lẩm bẩm vừa thu lượm giấy tờ lại.

“Cứ chờ tới đêm đi,” Lysander bảo khẽ. “Nó sẽ trố mắt lên sửng sốt cho mà coi.”

“Mấy người đang làm gì đấy?” Lần này chính là Belle đang tiến tới chỗ chúng.

Bọn con trai đứng dạt ra một bên, và Belle đạp hẳn lên đống giấy, cố ý giẫm lên từng tờ giấy mà nó trông thấy.

“Coi chừng!” Tancred hét lên. “Mấy bức vẽ của tôi đấy.”

“Cái gì?” Belle liếc nhìn lại Tancred với con mắt đỏ bầm màu trái anh đào.

“Coi chừng chứ sao,” Tancred quát lại, mái tóc vàng của nó nổ lốp bốp.

“Có vụ gì hả?” Một giọng cất lên, và Asa xuất hiện, bước dài dọc theo hành lang tối.

“Không có gì mà tôi không dàn xếp được,” Belle nhoẻn với Asa một nụ cười cực kỳ mê hồn.

Asa khoái chí nhếch mép cười.

“Lượm cái đống đó lên rồi về phòng ngủ chung của tụi bay, lẹ lên,” nó quát mấy thằng nhỏ.

Belle hất những lọn tóc vàng ra sau và bước đi, có Asa chạy lon ton theo cái bóng của nó.

“Em nghĩ bọn chúng đã đoán được là sẽ có việc xảy ra đêm nay,” Charlie thì thầm trong khi giúp hai anh lớn thu dọn giấy.

“Nhưng chúng không biết đó là cái gì.” Lysander trấn an nó. “Chúc may mắn, Charlie!”

“Cám ơn!”

Charlie bước tiếp về phòng ngủ chung. Nó thấy Billy Raven đang ngồi thu lu trên giường, trông lo lắng kinh khủng.

“Em không sao chứ, Billy?” Charlie hỏi.

Billy lắc đầu.

“Em sợ,” nó thì thào.

“Đừng sợ. Phe tụi mình ngon mà. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới giờ.”

Nói rồi Charlie trở lại giường của nó và thay bộ đồ ngủ vô.

Ở giường kế bên, Fidelio đang nằm nghiêng, đọc một bản nhạc giống như là cách người ta đọc một cuốn sách.

“Tối nay có cần anh đi cùng với em không?” Nó hỏi Charlie.

“Không cần,” Charlie đáp. “Tốt hơn anh nên ở lại đây và trông chừng các thứ.”

“Ừ,” Fidelio quay lại với bản nhạc của mình, vừa ngâm nga nho nhỏ khi đọc những nốt nhạc.

Gabriel xộc vô ngay trước khi đèn tắt vài phút. Nó thở phì phò và mặt đỏ gay, hoặc là vì chạy hay là có cái gì đó đã làm nó sửng sốt. Nó đang cầm một chiếc áo chùng xanh lá cây cuộn tròn lại.

“Bộ anh chuyển sang khoa hội hoạ rồi à?” Charlie hỏi, có vẻ bông đùa hơn là nghiêm túc.

Gabriel lại lấy đó làm nghiêm túc. Nó ngồi cái phịch xuống đầu đằng kia chiếc giường của Charlie.

“Tôi tìm thấy chiếc áo chùng của thầy Boldova,” nó hạ thấp giọng. “Nằm ngay phía sau tủ âm tường của khoa hội hoạ. Từ bữa đó tới nay tôi luôn cố tìm cái gì đó có thể cho chúng ta biết manh mối về vụ biến mất của thầy.”

“Cái áo chùng này… anh biết?”

“Biết chứ,” Gabriel bảo.

Fidelio ngước nhìn lên.

“Chuyện gì đấy?” Nó hỏi.

Gabriel nhìn quanh phòng ngủ chung. Bọn con trai trong phòng đang tấp nập ra vô nhà tắm, vài đứa đang đọc sách trên giường, những đứa khác đang đấu láo hoặc cãi lộn chí choé. Xem ra chẳng có đứa nào chú ý đến Gabriel và chiếc áo chùng xanh lá cây.

“Thầy Boldova đang ở rất gần đây thôi,” nó thì thào. “Thầy không về nhà. Mà thầy… kiểu như là… mất tích vậy. Nó cho tôi cảm giác giống hệt như hồi tôi có cảm giác về ba của cậu vậy, Charlie, nhưng tình trạng của thầy Boldova không đến nỗi xấu như vậy. Có lẽ vì thầy có phép thuật. Thầy vẫn có thể chống lại được.”

Nghe nhắc tới ba khiến Charlie ngẩn cả ra. Tìm ba là điều cuối cùng nó nghĩ tới. Bây giờ, đột nhiên, nó chợt thắc mắc liệu gia đình nhỏ của nó có bao giờ được đoàn tụ hay không. Ba Lyell Bone của nó hiện đang ở đâu? Ở xa thật xa đây, hay là ở gần thật gần, tới nỗi không ai tưởng tượng ra? Gần, nhưng mất tích.

Lo lắng vì thấy Charlie cau mày, Gabriel bảo:

“Đêm nay tôi đi cùng cậu nhé, Charlie.”

“Không cần đâu,” Charlie nói chậm rãi.

“Tôi sẽ đi,” Gabriel nói dứt khoát. “Và tôi sẽ mặc cái này.” Nó nhét chiếc áo chùng xanh lá cây xuống dưới gối. “Thầy Boldova là một người can đảm. Tôi nghĩ chiếc áo chùng này sẽ tiếp cho tôi thêm một chút lòng dũng cảm.”

Trong những tình thế nguy nan, cái cậu Gabriel hơi đãng trí, hay mơ màng này lại thường biến thành đứa điềm tĩnh và mạnh mẽ tới không ngờ. Charlie rất vui vì Gabriel sẽ đi cùng với nó trong cuộc săn lùng con trăn xanh da trời đầy rủi ro này.

Bọn trẻ ở học viện Bloor sẽ còn bàn tán mãi về cái đêm của gió và những linh hồn ấy. Cái đêm sẽ không bao giờ bị lãng quên.

Đúng lúc chuông đồng hồ điểm nửa đêm, cái giờ yêu thuật mà Charlie luôn cảm thấy sống động và đầy quyết tâm nhất, ba thằng nhỏ rời khỏi phòng ngủ chung và bắt đầu cuộc hành trình đi về phía chái phía tây. Billy đi chính giữa Charlie và Gabriel (cậu này bận chiếc áo chùng xanh lá cây của thầy Boldova).

Một làn gió nhẹ vi vu thổi theo bước chân chúng. Dần dần, làn gió nhẹ biến thành một cơn gió mạnh, thổi vi vút xuống những hành lang tối om, làm rung lạch cạch những cửa cái và cửa sổ, nhấc những tấm thảm lên và thổi phồng những tấm rèm. Trong những phòng ngủ chung, bọn trẻ kéo tấm trải giường lên trùm kín đầu, cố làm bộ như không nghe thấy tiếng hú, tiếng rít và tiếng lạch cạch bí hiểm đang hoành hành ở bên ngoài những cánh cửa phòng chúng.

Bà Lucretia Yewbeam đã được bà em tiên tri Eustacia cảnh báo trước rằng sẽ có một chuyện rất kỳ quặc xảy ra trong Học viện Bloor vào đêm hôm đó. Ngay khi nghe thấy tiếng gió hú trái với tự nhiên ấy, bà Lucretia liền bật ra khỏi giường, định sẽ ngăn chặn bất cứ “hành vi ngớ ngẩn” nào. Nhưng khi bà ta vừa mở cửa, cơn gió đẩy ngược bà trở vô giường, với một sức mạnh mà bà chỉ còn cách nằm ẹp ra đó, khiếp hãi và không thở được.

Những kẻ khác cũng đang cố gắng rời khỏi phòng mình. Nhưng vô ích! Manfred Bloor đu người rị vô cái nắm cửa, thét gào tức tối, trong khi ở phía bên kia cánh cửa, có hai bàn tay nâu ghìm chắc cánh cửa lại.

Lão Ezekiel già khọm thậm chí còn không thể lăn bánh xe lăn ra được tới cửa. Một đoàn quân thương giáo đã đột nhập vô căn phòng của lão. Những ngọn thương vây kín xung quanh lão, xắt vô không khí bằng những tiếng rít hung bạo bất cứ khi nào lão cố nhúc nhích.

Ở tầng lầu bên dưới, giáo sư Bloor đang hằm hằm bước đi trên hành lang trải thảm dày, thắp đèn sang trưng bên ngoài phòng ông ta. Vừa lao đi được một nửa đường, ông ta chợt húc phải cơn gió, thế nhưng điều này chưa đủ kìm được bước một người đàn ông cỡ như giáo sư Bloor. Ông ta chống trả quyết liệt, gầm gừ giận dữ, cho tới khi vấp phải một thế lực quá hùng mạnh để mà vượt qua. Trước tiên, đèn phụt tắt, và rồi ba hình thù như hồn ma lù lù hiện ra trước mặt. Gương mặt của những bóng ma bị che khuất trong một làn sương mù, nhưng những bàn tay sậm màu đang giữ những ngọn thương của họ lại hiện ra rõ mồn một. Những cái bóng ấy phát ra một âm thanh lạ, nghe như tiếng trống đổ dồn từ đằng xa.

Ở tầng chót vót của cái chái phía tây, một người đàn ông hiếm khi ngủ rời tay khỏi phím đàn dương cầm và đặt hai tay lên đùi. Thầy Pilgrim lắng nghe những tiếng chuông lúc nửa đêm. Còn có những âm thanh khác trong không gian: tiếng trống xa xa, một cơn gió hú và hát. Thầy dạy nhạc nhíu mày, cố nhớ xem cuộc đời mình trước kia đã từng như thế nào.

Emma và Olivia vẫn chưa chợp mắt chút nào suốt đêm. Chúng nằm im thin thít trên giường từ tối tới giờ, lắng nghe và chong mắt nhìn. Vào đúng lúc tiếng chuông nửa đêm điểm, Olivia nhìn thấy một bóng hình nhợt nhạt lướt về phía cửa. Trong tích tắc, Olivia chồm dậy khỏi giường và phóng theo cái bóng đó. Cái bóng đột ngột quay lại, nhìn thẳng vô mặt nó, và trong ánh sáng lờ mờ của cánh cửa mở giữa chừng, Olivia trông thấy một mụ già quái đản và xấu xí.

“Cút ra xa tao,” mụ già quát.

“Không,” Olivia túm lấy cái cổ tay xương xẩu.

“Cút đi!” Mụ phù thuỷ tru lên.

“Tôi biết bà là ai, bà phù thủy già kia,” Olivia hét lại. “Tên bà là Yolanda Yewbeam, và tôi không sợ bà đâu, không sợ chút xíu nào.”

“Thế hả?”

Mụ phù thủy bật một tiếng cười khục khục trong cổ họng, và tất cả những nữ sinh trong phòng ngủ chung, trừ hai đứa, đều rụt cổ chui tọt xuống tấm mền của mình.

Olivia, vẫn bám chặt mụ phù thuỷ, bị lôi xềnh xệch ra ngoài hành lang. Nó đạp đá túi bụi, và một cẳng chân nó bỗng bị ngoạm giữa hai quai hàm thép. Olivia thét lên đau đớn khi những cái răng sắc nhọn cắm ngập tới xương, và rồi con bé nhìn thấy cái mặt của một con thú, gớm ghiếc và kinh khủng tới nỗi nó phải nhắm tịt cả mặt lại. Cái cổ tay ngẳng của mụ phù thuỷ tuột khỏi tay Olivia, và qua đôi mắt mở hí ra, Olivia trông thấy mụ phù thuỷ choàng áo trắng cùng với con thú biến mất vô bóng đêm.

Khi Olivia lết trở vô phòng ngủ chung, nó suýt nữa té đè lên một thân hình nằm chắn ngay bên trong cánh cửa. Đó là Emma, bị quấn từ đầu tới chân trong một sợi dây dày chắc.

“Emma!” Olivia nín thở. “Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Mình tính giúp bồ,” Emma thở hắt một cái đau đớn. “Mình nghĩ là biến thành chim thì có thể sẽ…”

Olivia thấy những sợi lông chim lú ra ở đầu những ngón tay của Emma đã bị dây nhợ cột chặt lại, đau đớn.

“Ối, Emma. Ai làm thế này với đằng ấy vậy?” Olivia hấp tấp giằng kéo sợi dây ra.

“Mình không chắc. Nhưng mình nghĩ đó là Dorcas.”

Olivia quay nhìn hai dãy giường. Tất cả bọn nữ sinh đều đã chui kín vô trong mền.

“Để tớ giải thoát cho đằng ấy ra khỏi cái này,” Olivia nói gằn giọng và tìm thấy một đầu gút, thế là nó bắt đầu dùng răng tấn công mối gút ấy.

Emma thở ra một tiếng nhẹ nhõm, những sợi lông đen mềm mại trên đầu ngón tay nó bắt đầu nhạt đi.

Charlie, Gabriel và Billy đã tới khu vực bụi bặm, thắp đèn khí, nơi lão Ezekiel già sống suốt một trăm năm nay. Billy giờ đang run lẩy bẩy vì sợ hãi. Gabriel và Charlie mỗi đứa cầm một bàn tay Billy và dắt nó về phía cầu thang mà Charlie đã trông thấy con trăn xanh da trời. Con trăn vẫn còn ở đó, cuộn một cuộn như đống dây thừng xanh da trời, óng ánh bạc, ngay trên đầu cầu thang, thoáng lấp lánh trong ánh sáng lù mù.

Khi ba thằng bé leo lên cầu thang, sinh vật nọ liền ngóc đầu lên, khiến bọn trẻ cứng cả người. Cặp giò của Charlie bỗng nhiên nặng như đeo chì. Nó chẳng thể nhúc nhích nổi. Phía đằng sau, nó nghe tiếng Billy hít thở hì hụi.

“Nói chuyện với nó đi, Billy,” Charlie thì thào.

Im lặng.

“Billy?” Gabriel gọi.

“Em… không… không làm được,” Billy lắp bắp. “Em không biết nói gì.”

“Gì cũng được,” Charlie tuyệt vọng hối thúc. “Nói bất cứ chuyện gì đi.”

Bất thình lình con trăn rít lên một tiếng thật lớn. Nó vung thân thật dễ sợ và cái đầu nó thong xuống phía Charlie. Charlie vội lùi lại, suýt nữa thì tông Billy ngã.

Và rồi, trước sự sửng sốt của Charlie, Billy dội vọng lên tiếng rít của con trăn, và con vật rồ lên một âm thanh lọc khọc. Và cứ như không thể kìm được, Billy tiến vượt qua Charlie và bắt đầu leo lên chỗ con trăn.

Charlie bước lùi xuống cho tới khi đứng trong hành lang cùng với Gabriel. Nín thở, chúng dòm thằng bé xíu bò lên gần hơn, gần hơn nữa cái cuộn thừng xanh da trời thoáng ẩn hiện. Tiếng rồ rồ của con trăn nhẹ đi và căng ra, và Billy, xem ra đã nắm bắt được ngôn ngữ của con vật ấy, liền ngâm nga và huýt gió đáp lại. Khi tiến tới bậc thang trên cùng, Billy ngồi xuống khoanh chân xếp bằng, nhìn chằm chằm vô con trăn lạ lùng, có những diềm lông chim như mình. Và, mặc dù không thể hiểu được lời nói của con vật, nhưng Charlie có cảm giác là con trăn đang cảm thấy ấm áp với Billy và đang cố kể cho thằng bé một câu chuyện.

Bằng một giọng lặng lẽ, đứt quãng, Billy dịch lại những lời của con trăn.

“Nó nói… nó được sinh ra cách đây một ngàn năm. Trước kia… nó đã từng sống với một vị vua… Ngài đối xử rất tốt với nó. Nhưng một ngày nọ khi nhà vua đi vắng… và con trai ngài… tra tấn nó, cho tới khi nó thù ghét… thù ghét… thù ghét… và giết chóc. Con gái của nhà vua đã tìm thấy nó… đang chìm trong sự giận dữ… và bà… gần như chữa khỏi cho nó… bằng sự tử tế. Nhưng con trăn không thể nào quên được… cú xiết hết lực của nó… vòng ôm đầy đói khát của nó… nên bà công chúa… cho nó sức mạnh… chỉ biến mất… mà không chết…”

Billy ngó xuống Charlie và Gabriel.

“Nó là một con trăn tốt, thật đấy,” Billy bảo chúng. “Kể từ khi bà công chúa qua đời, nó không nói chuyện với bất kỳ ai… cho tới tận bây giờ… Em nghĩ em đã làm cho nó cảm thấy hạnh phúc.”

“Cẩn thận đấy, Billy,” Charlie nói.

Con rắn đang trườn qua Billy, và thằng bé tóc trắng quay lại đúng lúc con trăn trườn lên đùi nó. Billy há hốc miệng khi con trăn quấn quanh eo nó. Từ từ nguyên phần thân thể phía dưới Billy bắt đầu biến mất.

“Ôi, không!” Charlie thét lên. “Tụi mình đã làm gì vậy này?”

“Suuỵtt!” Gabriel suỵt. “Im nghe.”

Billy đã bắt đầu ư ử và ngâm nga. Nó phụt ra một tràng những tiếng thở ồng ộc ngắn khi con trăn quấn tới cổ nó. Con vật treo lơ lửng ở đó, rõ ràng là đang lắng nghe thằng bé nói, và chầm chậm, cơ thể của Billy lại hiện ra.

“Trời! Nó làm được chuyện ấy,” Charlie thốt lên. “Nó làm được thiệt.”

“Hỏi con trăn xem nó có thể làm được tương tự với một thằng bé khác hay không,” Gabriel nhắc. “Thằng bé mà nó đã quấn thành vô hình đó.”

Billy tiếp tục ngâm nga và con trăn đáp lại bằng tiếng rít và tiếng rồ rồ dồn dập hơn.

“Nó nói… nó sẽ làm…,” Billy bảo chúng, “nếu chúng ta hứa… không nhốt nó vô một cái hũ… Suốt mấy trăm năm nó bị giữ trong chất lỏng xanh da trời… cùng với xương cốt của một con chim… cho tới khi lão Ezekiel làm cho nó tỉnh lại. Chính vì thế mà nó mới có lông chim. Em đã bảo với nó rằng chúng ta sẽ không bao giờ bỏ nó vô trong hũ đâu. Rằng chúng ta sẽ đem nó tới một nơi an toàn.” Billy liếc nhìn Charlie. “Em hy vọng đó là sự thật.”

“Đúng thật mà,” Charlie bảo. “Anh hứa là sẽ không ai làm hại nó.”

“OK,” Billy nói “Giờ thì sao?”

“Tụi mình đem nó tới khu nhà bếp,” Charlie bảo.

Billy đứng lên và thận trọng đi xuống những bậc thang ọp ẹp, cùng với con trăn vẫn vui vẻ quấn quanh cổ nó.

“Hy vọng tụi mình có thể gạt nó ra khỏi thằng nhỏ,” Gabriel thì thào với Charlie khi chúng đi dọc theo hành lang. “Tôi thắc mắc không biết nó ăn cái gì.”

“Ai mà biết?”

Charlie đột nhiên nhớ ra một công việc khác. Nó lôi hũ Mứt Dâu Ngon Nhất ra khỏi túi áo ngủ của nó và gọi khẽ:

“Ollie Sparks, bạn có ở đó không? Tôi mang cho bạn một ít mứt nè.”

Nhưng toà nhà vẫn đang chìm trong bùa chù của cơn gió và những linh hồn. Những lời của Charlie bị chìm lỉm và không có tiếng đáp lại.

Khi bọn chúng đi tới tiền sảnh, tiếng vi vu và tiếng rú rít của cơn gió đang tới hồi dữ dội. Thỉnh thoảng, một bóng hình nhạt nhoà trôi đi bên cạnh chúng, và một ngọn thương sáng quắc, hay một mũi tên có cắm lông chim bay vèo qua đầu chúng.

Billy, chẳng bị ảnh hưởng gì bởi hoạt động của tất cả các thế lực siêu nhiên đó, dẫn đầu, trong khi con trăn vẫn xì xào bên tai nó.

Chúng đi tới chỗ chiếu nghỉ, vừa đi vừa ngó xuống cái tiền sảnh dài, lát những viên đá lớn, nơi nắm giữ nguồn cơn của cái đêm đầy ma thuật này. Có hai hình bóng đang xoáy tít và quay mòng mòng khắp sàn nhà. Chúng di chuyển lẹ tới nỗi những chiếc áo chùng xanh lá cây bay tung cả lên, trông như những đôi cánh chấp chới của một con ruồi. Chắc hẳn sẽ không thể nào phân biệt được đứa nào với đứa nào nếu không nhìn vô cái đầu chúng – một đứa tóc đen và đứa kia tóc vàng, toé sáng và kêu lắc rắc.

Billy vừa định thò chân đi xuống dãy cầu thang chính thì nó bỗng thét lên kinh khiếp. Một con nhện khổng lồ vừa rớt từ trên trần nhà xuống, và bây giờ đang bò lổm ngổm trên những bậc thang phía trước thằng bé.

“Bình tĩnh,” Gabriel trấn an. “Coi vậy mà nó không ghê gớm đâu.”

Gabriel tiến vượt lên trước cả bọn và bắt đầu bước xuống phía con nhện. Sinh vật khổng lồ đó thình lình búng lên đậu trên thanh gióng cầu thang, và rồi quăng mình xuống tiền sảnh trên một sợi tơ bạc, dày cỡ một ngón tay.

Nó đáp xuống ngay trước mặt Tancred, cơ thể quay tít của Tancred bỗng ngập ngừng và rồi dừng phắt lại. Chiếc áo chùng của nó cụp lại và vai nó thõng xuống. Nó nhìn trân trối vô con nhện, gương mặt trắng bạch ra vì sợ hãi, và cơn gió điên cuồng đang thét gào khắp toà nhà cũng im bặt.

“Đừng ngưng lại, Tancred,” Gabriel gọi lớn. “Đó là mụ ta… mụ Yolanda đó. Đừng sợ. Mụ không làm hại được cậu đâu.”

Nhưng Tancred không hề động đậy. Mụ Yolanda đã chọn hình dạng cho mụ thật là ranh mãnh và xảo quyệt. Tancred tê liệt luôn vì sợ. Vì vậy Gabriel buộc phải tự mình đối phó với con nhện. Quấn chặt chiếc áo chùng của thầy Boldova dũng cảm quanh mình, nó chạy vô tiền sảnh, thét to:

“Này, mụ Yolanda. Đây này mụ già xấu xí! Mụ làm gì được ta nào, hứ?”

Con nhện quành những chân trước của nó về phía Gabriel, đôi mắt đỏ của nó bừng chói lên. Gabriel nhảy tránh ra, nhưng chỉ một thoáng liếc trúng ánh mắt thôi miên ấy đã khiến nó choáng váng. Và rồi Billy bước ngang qua Gabriel, thét lớn:

“Bà không thể làm như thế với tôi đâu, bà Yolanda. Tôi không thể bị thôi miên, hay bị bất cứ điều gì.”

Và con trăn – mà bây giờ cũng chính là Billy, cả thể xác lẫn linh hồn nó – đâm bổ vô con nhện, cùng với một tiếng khè vang khắp tiền sảnh, khiến cho sinh vật bự ấy rùng mình và teo rúm lại.

Tancred mỉm cười và giơ tay lên. Với đôi cánh xanh lá cây, nó khuấy động không khí, và cơn gió quay trở lại, thổi con nhện trôi lốc thốc qua sàn nhà.

Đoàn quân nho nhỏ, với Billy đi đầu, tiếp tục cuộc hành trình của mình tới nhà bếp. Nhưng, ngay trước khi chúng rời khỏi tiền sảnh, một tiếng rú kinh hoàng khiến chúng quay đầu nhìn lại. Con thú mà Charlie đã từng chạm trán trong khu lâu đài hoang đang đứng sựng ở đầu cầu thang. Nó bị bao vây bởi những thân hình ma quái, cao lớn mặc áo thụng nhạt nhoà. Trên những cánh tay của họ đeo đầy những vòng xuyến sáng lấp lánh và những mũi giáo dài vươn cao quá đầu.

“Đêm nay con thú đó không đi xa được đâu,” Charlie nói nghiêm trang.

Ba thằng bé bước vội qua hành lang treo đầy những bước chân dung, và Gabriel rút cây đèn pin của nó ra để rọi sáng đường đi. Bà bếp trưởng đang chờ bọn chúng ở cánh cửa của căn-tin xanh da trời, với một cái giỏ mây đặt dưới chân. Ông cậu Paton đã giữ lời. Chiếc giỏ này thậm chí còn cả bánh xe nữa.

“Ô, ô, trời,” bà bếp trưởng mừng rỡ. “Con là một cậu bé thật dũng cảm, Billy. Con có nghĩ là con rắn của con sẽ chịu chui vô cái giỏ này không?”

Billy thì thầm với con trăn, nhưng con vật vẫn bám chắc vô nó. Thằng bé ngâm nga và rít lên một tiếng vỗ về nhẹ, và từ từ con trăn mới nới lỏng cú siết của mình. Billy nâng con trăn ra khỏi cổ nó và nhẹ nhàng đặt vô chiếc giỏ mây.

“Nó sẽ làm điều bà muốn ngay bây giờ,” Billy nói.

“Cám ơn, Billy,” bà bếp trưởng đậy nắp giỏ lại và cột lại bằng một sợi dây da.

“Em có thứ gì là bị mất thứ ấy.” Billy buồn bã. “Tất cả mọi thứ.” Và nó đầm đìa nước mắt.

“Không phải đâu,” bà bếp trưởng nói. “Con sẽ gặp lại một người bạn của con ngay đây. Rembrandt là tên nó thì phải, nếu ta nhớ không lầm.”

“Thật à?” Billy quệt ngang mũi, sung sướng.

“Thế, có tin gì về Ollie Sparks không? Ta rất hổ thẹn vì tới giờ vẫn chưa thể mang được chút đồ ăn nào cho chú nhóc đáng thương ấy. Cái gã Weedon luôn theo dõi mọi cử động của ta.”

“Tạm thời lúc này tụi con đã để mất cậu ấy,” Charlie thú nhận. “Nhưng tụi con nhất định sẽ kiếm ra cậu ấy. Tụi con sẽ không bỏ cuộc.”

“Tốt nhất là phải kiếm lẹ lên, Charlie,” bà bếp trưởng thở dài. “Giờ thì về đi! Cả ba đứa. Cứ để ta lo liệu cái này.”

Rồi bà xách chiếc giỏ mây lên và biến mất vô trong căn-tin.

Với sự hộ tống của tiếng gió hát và một đoàn linh hồn bay vù vù, ba cậu bé chạy vội trở lên lầu. Chúng đi ngang qua Tancred và Lysander, vẫn đang thực hiện phép thuật của mình trong tiền sảnh, nhưng con nhện và con quái thú đã biệt dạng. Gabriel và Billy đi trước Charlie, và khi nó mới vừa quẹo vô hành lang dẫn lên phòng ngủ chung, thì một bàn tay tóm lấy cổ tay nó. Charlie giật bắn cả người.

“Tôi đây,” một giọng nói. “Ollie Sparks.”

“Ollie?” Charlie thì thào. “Tôi có món này cho bạn đây.”

“Mứt chứ gì,” Ollie bảo. “Tôi đã nghe bạn gọi.”

“Loại Dâu Ngon Nhất,” Charlie nói.

“Này.” Nó chìa hũ mứt ra.

“Chao! Thứ tôi thích đây. Cám ơn Charlie.”

Thật khó thấy được chuyện gì đang xảy ra, nhưng Charlie cảm thấy hũ mứt vuột khỏi tay nó… và biến mất.

“Ollie, tôi có mấy tin tốt lành đây,” nó nói. “Tụi tôi đã tìm ra một cách để giúp bạn hiện hình trở lại. Nhưng, bạn sẽ cần phải làm sao đó để đi ra khỏi toà nhà này. Emma đã làm ra cái này để bao ngón chân cái của bạn lại. Đây này… một con nhện.”

Ollie cười khúc khích, và con nhện được nhón khỏi bàn tay Charlie.

“Cái này được đây, nhưng tôi sẽ không ra ngoài trong khi còn vô hình đâu. Tôi biết đi đâu bây giờ?”

Charlie trao cho nó địa chỉ của cô Ingledew.

“Chỗ này gần nhà thờ lớn và cô ấy sẽ chăm sóc bạn cho tới khi… tới khi bạn được chữa khỏi.”

“Tôi sẽ được chữa khỏi như thế nào?” Ollie hỏi, giọng nghi ngờ.

Charlie nhận thấy nó sẽ phải nhắc tới con trăn. Nó bèn tả lại sự biến mất rồi lại hiện ra kỳ lạ của Billy.

“Sẽ được mà, tin tôi đi,” Charlie bảo.

“Con trăn ấy á?” Ollie kêu thảng thốt. “Không đời nào. Nó sẽ làm tiêu tôi mất.”

“Nhưng mà bạn tiêu rồi còn gì,” Charlie nói. “Về mặt nào đó, ý tôi là, vô hình một cách tồn tại khốn khổ, đúng không? Bạn không muốn về nhà với cha mẹ bạn sao? Hãy nghĩ tới điều đó đi. Bạn không muốn anh bạn thấy bạn là một cậu bé thật và đầy đủ thân hình sao?”

Im lặng kéo dài, tiếp theo là một tiếng thở dài, và giọng của Ollie man mác trong bóng đêm.

“Ừ,” nó nói. “Được, tôi sẽ làm.”

Charlie cảm thấy có lỗi khi nhắc tới thầy Boldova – hoặc Samuel Sparks. Trong thoáng chốc, nó nghĩ tới việc phải nói cho Ollie biết sự thật, rằng thật sự cả bọn không biết anh nó hiện đang ở đâu. Nhưng khi nó gọi tên Ollie thì không có tiếng trả lời nữa, và nó nhận ra rằng thằng bé vô hình đã đi rồi.

Mình hy vọng nó sẽ ra ngoài, Charlie nghĩ, bằng không thì tất cả chẳng có nghĩa lý gì.

Bà bếp trưởng xách chiếc giỏ mây trở lại căn phòng bí mật đằng sau nhà bếp. Khi về tới nơi, bà đứng lên một chiếc ghế đẩu và mở ô cửa trời ở trên trần nhà thấp.

“Ừm. Thật là vừa vặn,” bà tự nói với mình.

Từ khoảng tối bên trên, ba cặp mắt sáng ngời đang ngó xuống.

“A, tới rồi,” bà nói. “Lũ mèo ngoan. Ta có một gói hàng cho bọn mi. Nó đây này,” và bà nâng chiếc giỏ mây lên, đút qua ô cửa trời.

Bất cứ công dân không ngủ nào, liếc nhìn qua cửa sổ nhà mình vào buổi sáng đầy sao ấy, chắc hẳn đã chứng kiến được cảnh tượng vô cùng lạ lùng. Ba con mèo lớn chạy qua những đường phố vắng tanh: một con màu vàng, một con màu cam và một con màu đồng đỏ. Bộ lông của chúng nháng lên những tia sáng chói lói và ria của chúng óng ánh như bạc. Mỗi con mèo ngoạm trong miệng một đầu sợi dây da, và kéo phía sau một chiếc giỏ mây có bánh xe. Cái giỏ có thể chứa gì ở trong đó? Một đứa bé bị đánh cắp? Một món trang sức vô giá? Hay đồ ăn cho một bữa đại tiệc? Chắc chắn không ai đoán ra được sự thật.

“Giỏi lắm, các chú mèo đẹp đẽ của ta,” ông Onimous tán thưởng. “Nào bây giờ chúng ta hãy cùng xem báu vật của bọn mi nào!”

OLLIE VÀ CON TRĂN

Để thực hiện chuyến đào thoát khỏi Học viện Bloor, Ollie chọn một cánh cửa mà không mấy đứa trẻ biết tới.

Trước khi mất đi lòng háo hức trước tình trạng vô hình đầy mới lạ, Ollie đã kịp tận dụng sự tự do mà vô hình mang lại để thoả mãn trí tò mò khôn cùng của mình. Một đêm nọ nó đã khám phá ra cánh cửa sau lâu đài này. Nhưng cửa khoá, mà cho dù cửa không khoá đi chăng nữa, chắc chắn nó cũng chẳng rời khỏi toà nhà. Trời tối là một chuyện, và còn một chuyện nữa là nó sẽ đi đâu?

Cánh cửa đó toạ lạc ở phía sau nhà bếp xanh lá cây, nơi bà vợ Bertha của gã Weedon trấn giữ. Những khi Bertha không phải nấu nướng, bà ta sẽ ngồi trong một chiếc ghế bành sờn tưa, đọc truyện kinh dị. Bà ta đặc biệt mê những tiểu thuyết của Agatha Christie. Nhưng ngay cả khi có vẻ như đắm chìm hoàn toàn vô cuốn sách, thì chắc chắn Bertha Weedon vẫn để nửa con mắt của mình vô cánh cửa. Bà ta rất thích để ý chính xác xem ai đang đi vô và đi ra.

Bên ngoài cánh cửa đó có một mảnh sân nhỏ làm nơi đặt những thùng rác. Những người lấy rác thường khua những thùng rác ấy ầm ĩ cả lên. Làm sao mà họ lại không làm như thế cho được? Để ra được tới ngoài phố, họ cần phải đẩy những thùng rác nặng chịch lên một đoạn dốc, và sau đó đi qua hai cánh cổng cao, được trang trí bằng đinh mũ.

Tất cả hàng hoá được giao tới Học viện đều đi qua cánh cổng đôi này, rồi xuống đoạn dốc, hoặc xuống mấy bậc thang đá vốn được chú đưa thư ưa thích (có lần chú ấy đã té lộn nhào từ trên dốc, thủ phạm là một trái chuối mốc meo).

Sáng thứ ba, Ollie đi xuống nhà bếp xanh lá cây. Con nhện của Emma vừa khít ngón cái bàn chân phải của nó, và nó khoái chí dòm con nhện búng lên trước mặt mỗi khi nó đặt bàn chân phải về phía trước.

Học viện Bloor yên ắng lạ thường, và Ollie cứ tưởng chưa có ai khác thức giấc, cho tới khi nó đi tới nhà bếp xanh lá cây… Bà Weedon đứng ngay bên cạnh cánh cổng sau, trong khi người bán cá và người phụ việc của ông ta ì ạch đi qua với những khay cá đông lạnh thật lớn.

“Vô đó đó! Vô đó” Bà Weedon la lớn, tay chỉ chiếc tủ đông khổng lồ. “Lẹ lẹ giùm coi.”

Ollie chờ cho tới lúc hai người đàn ông đẩy trượt những khay cá vô trong chiếc tủ đông thì nó liền chớp thời cơ. Nhưng khi nó vừa đặt bàn chân phải nơi bậu cửa, bà Weedon liền phát hiện ra ngay con nhện và “phụp”… Bà ta đạp lên.

“Úi!”

Ollie ré lên. Và gần như không suy nghĩ, nó giơ bàn chân trái lên và đá cho bà Weedon một cái, đúng chỗ đau nhất.

“Áááá!” Bà Weedon rú vang.

“Chuyện gì đó?” Người bán cá, tên là Crabb, hỏi.

“Con nhện chết toi đó… Nó đang chạy mất kìa!” Bà Weedon gào như bị bóp họng. “Bắt lấy nó… Lẹ lên… Tôi ngạt thở rồi!”

“Bà giỡn chắc,” ông Grabb nói, giọng vui vẻ.

“Tôi KHÔNG giỡn!” Người phụ nữ cáu rít lên. “Tôi bị thương rồi.”

“Không. Ý tôi là bà đang giỡn về con nhện kìa,” ông Crabb nói.

“Tôi KHÔNG giỡn!” Bà Weedon gào lên. “BẮT LẤY NÓ.”

“Cái gì… Bắt một con nhện bé xíu hả?” Ông Crabb nói, vẻ ngờ vực.

“NÓ không NHỎ! Nó biết đá hẳn hoi,” bà Weedon gào, lạc cả giọng.

“Ra vậy.” Ông Crabb đã nghiêm nghị hơn. “Ê, Brian. Chúng ta đi thôi.”

Hai người bán cá leo lên những bậc cấp bằng đá, mau hơn bình thường, nhưng không đủ mau để trông thấy một con nhện lớn phóng qua cánh cổng sắt và bắn vọt ra ngoài đường.

Ollie đã không ra khỏi Học viện suốt hơn một năm trời. Giờ, nó không thể nhịn nổi, cứ nhảy chồm chồm và búng mình lên khi vội vã băng qua thành phố. Nó được tự do rồi. Mặt trời đã lên và mái vòm của nhà thờ lớn rực rỡ trong ánh ban mai.

“Ra rồi!” Ollie hát vang. “Ra mãi mãi. Và ta sắp lại là ta!”

Khi tới được nhà thờ lớn, nó ngước nhìn chằm chằm vô tòa nhà cổ kính; choáng ngợp trước độ cao và đám tượng đá chi chít từ cái cổng vòm đồ sộ cứ ngó ra trừng trừng.

“Mình tự do rồi!” Ollie hét lên.

Chẳng có ai ở quanh đấy cả, cho nên nó nhảy nhót khắp quảng trường rải sỏi, hát vang:

“Chẳng bao lâu nữa ta sẽ là ta, ta, TA!”

Ánh mặt trời chiếu cho nó thấy một cửa sổ bày hàng nhỏ, nơi trưng bày những cuốn sách bìa da tựa vô nền một bức màn nhung đỏ.

“Tiệm sách Ingledew.”

Ollie đọc tên tiệm ở bên trên cánh cửa. Nó lượn qua và nhấn chuông.

Một phụ nữ nhìn ra từ một cửa sổ trên tầng hai. Cô nhìn vô khoảng không chỗ Ollie đứng. Ngay cả ở khoảng cách xa như vậy, cô vẫn có thể nhìn thấy một con nhện đen to bự mà đứa cháu gái của cô đã làm cách đây mấy ngày.

“Ollie đó hả?” Cô gọi.

“Xin chào cô!” Ollie lên tiếng. “Vâng. Là con đây ạ.”

“Chờ ở đó nhé! Một giây nữa cô xuống liền,” cô Ingledew nói.

Một thoáng sau, cánh cửa mở ra kèm theo một tiếng kính koong vui tai, và cô Ingledew xuất hiện trong chiếc áo choàng màu xanh da trời. Cô có gương mặt xinh đẹp và tươi cười, và Ollie lập tức cảm thấy dễ chịu.

“Vô đi, Ollie,” cô Ingledew mời con nhện, vì không còn thứ gì khác để cô có thể nhìn vô.

Ollie bước vô cửa hàng và ngó chăm chăm quanh những kệ sách. Trông chúng thật thích mắt với những bìa sách êm ái, đắt tiền cùng những gáy sách ép nhũ vàng.

“Một nơi tuyệt diệu!” Nó trầm trồ.

“Cảm ơn con,” cô Ingledew nói.

Cô lo lắng nhìn quanh căn phòng và thấy con nhện nép mình sát bên quầy.

“Cô nghĩ là con muốn dùng điểm tâm,” cô bảo.

“Vâng ạ!” Ollie thở dài. “Cô có chút mứt nào không?”

“Có nhiều chứ. Emma bảo cô mua một ít mứt cho con đấy. Nhưng có lẽ con cũng muốn ăn cả trứng và thịt xông khói nữa nhỉ?”

“Thịt và trứng!” Ollie reo lên sung sướng. “Con chưa hề được ăn một bữa ăn nóng nào hơn một năm nay.”

“Ôi Trời ơi,” cô Ingledew nói. “Chúng ta sẽ phải sửa lại ngay lập tức.”

“Và ăn sáng xong con sẽ được chữa chứ?” Ollie nói. “Con gặp con trăn xanh da trời được không? Nó có làm cho con hiện hình lại được không?”

“Cô nghĩ chúng ta nên để việc đó tới tối nay,” cô Ingledew nhỏ nhẹ. “Ban ngày thành phố rất đông đúc và cô không muốn con bị đạp bẹp và bị… bị lạc mất.”

“Con cũng không muốn,” Ollie nói. “Dạ. Để đêm nay vậy. Giờ, con thưởng thức món mứt đó được chứ?”

Trong khi Ollie đang xơi bữa ăn nóng đầu tiên của mình sau bao nhiêu tháng trời, thì bọn trẻ và giáo viên Học viện Bloor vừa mới thức giấc.

Trên đường đi ăn sáng, Charlie quan sát thấy một bầu không khí bối rối trong số những giáo viên đi vụt qua nó. Bầu không khí này thậm chí càng rõ rệt hơn nữa trong nhà ăn, khi ban giám hiệu bước bốn bậc thang lên ngồi quây quanh Bàn Danh Dự, trước sự chứng kiến của toàn trường.

Giáo sư Bloor cứ hắng giọng liên tục, như thể sắp sửa thuyết giảng điều gì đó. Nhưng không một lời nào tuôn khỏi môi ông. Trông ông ta thật thê thảm. Mái tóc xám dựng lên nom thật kỳ dị, và gương mặt ông ta ngày thường đã nhợt nhạt thì nay thật tái mét.

Những cái nhìn hoang mang, ngơ ngác dường như đã lan tràn khắp trường. Nơi này vừa trải qua một đêm vô cùng kỳ lạ, nhưng không ai muốn bàn luận về nó. Sự thật thì hầu hết mọi người đều cảm thấy hoặc là xấu hổ vì cái sự hèn nhát của mình, hoặc là, như giáo sư Bloor, nhục nhã vì không thể ngăn chặn được cuộc xâm lăng của những hoạt động bất tự nhiên và kinh khủng như thế.

Bầu không khí kỳ lạ ấy kéo dài suốt cả ngày. Các giáo viên không thể nhìn vô mắt họ trò mình. Bọn trẻ nhìn nhau rồi lại vội vã quay đi. Tất cả mọi người đều đi đứng gấp gáp, không phải là như kiểu để mau chóng tới nơi mình cần tới, mà hình như là để mau mau trốn khỏi cái gì đó ở đằng sau lưng.

Charlie đoán việc này giống như là có bom gài trong toà nhà. Không ai biết trái bom ở đâu, hay khi nào thì nó phát nổ. Cuối cùng, mọi thứ lên tới cao trào ở trong phòng Nhà Vua sau bữa tối.

Tancred đúng là tia lửa, nếu có thể gọi đó là tia lửa. Mặc dù nó mệt nhoài sau một đêm hao tốn khá nhiều năng lượng, nhưng không ai không nhận thấy rằng nó rất ư hài lòng về bản thân.

Charlie có quá đủ lý do chính đáng để mà mãn nguyện, nhưng nó biết, sẽ thật nguy hiểm nếu bộc lộ ra.

Mười một đứa trẻ được ban phép thuật đang ngồi chỗ thường lệ của chúng quanh chiếc bàn, thì vẻ hơn hớn của Tacred bỗng trở nên quá sức chịu đựng đối với Belle.

“Dẹp cái vẻ hí hửng đó ra khỏi mặt mày đi, Tancred Torsson!” Belle giật giọng. “Mày tưởng mấy con gió vờ vịt của mày là tài giỏi lắm sao. Mày chẳng là cái quái gì cả. CHẲNG LÀ CÁI QUÁI GÌ CẢ!”

“Thế sao?” Tancred nói, ngoác miệng cười rộng hơn. “Ồ, thành thực mà nói, tôi không biết tại sao bà còn mất công đeo cái bộ mặt xinh đẹp đó làm chi nữa. Tất cả chúng tôi đều biết thật ra bà là cái gì rồi, mụ phù thuỷ kia!”

Một hơi thở hốt hoảng do sợ hãi phả ra quanh chiếc bàn, Asa đứng bật lên, gầm gừ:

“Rút lời đó lại, thằng khốn!”

“Giờ thấy can đảm rồi à, con thú tí nị kia!” Tancred châm chọc.

Asa đang định xông hẳn qua bàn thì Manfred túm lấy phía sau cổ áo nó:

“Câm ngay, tất cả bọn bay!” Nó thét. “Torsson, xin lỗi mau!”

“Tôi? Tại sao tôi phải xin lỗi?”

“Cô ta kiếm chuyện trước,” Lysander lên tiếng bằng một giọng chừng mực.

“Mày có nghe không,” Manfred rít lên. “Ý tao là, Torsson, mày không tài giỏi đến mức không thể bị trừng phạt. Mày biết đấy. XIN LỖI MAU!”

“Quên đi!”

Tancred dựng mái tóc nhiễm điện thẳng đơ của nó lên. Nếu xét về gió thì nó đã kìm được mình một cách đáng nể, nhưng bây giờ, để cho đỡ chán, nó phóng ra một loại thời tiết mới. Vài hạt mưa rớt lộp bộp bên bàn, và cả bọn vội vã rút sách che lên đùi.

“Lộp bộp, lộp bộp,” Zelda Dobinski cười khẩy. “Tội nghiệp quá. Thế mà cũng gọi là mưa hả?”

Tất cả bọn đều ước gì con nhỏ đừng phun ra câu đó. Phút sau, đụn mây đen nhỏ nãy giờ trôi lêu bêu ở dưới trần nhà thình lình vỡ bục ra, và một túi nước trút ào xuống. Nước bắn vô mắt bọn nhỏ, làm ướt sạch quần áo chúng, và ướt sũng hết sách vở.

“Thằng ngu!” Belle rít lên bằng một giọng đùng đục, đầy đe doạ. “Mày nghĩ mày là ai kia chứ?”

Bị làn mưa che lờ mờ, Charlie thấy cái điều mà nó hy vọng mình đừng bao giờ thấy lần nữa. Những nét thanh tú của Belle chuyển thành màu nâu và giống như chó. Hai cái tai phòi ra từ đầu và hai cái cánh to đùng trụi lông bắt đầu toè ra khỏi vai. Belle đang biến thành một con dơi khổng lồ.

Con dơi giang đôi cánh trần trụi của nó ra, và hú lên một tiếng sôi máu, nó bổ nhào tới Tancred. Thằng bé hét lên “Ááááá,” rồi chui thụp xuống gầm bàn. Tất cả bọn còn lại cũng vậy – ngoại trừ Asa, nó ngồi yên chiêm ngưỡng con dơi với một vẻ sùng bái vô bờ.

Con vật kệch cỡm đó bắt đầu lượn vòng quanh căn phòng, đôi cánh của nó quệt vô những kệ sách và những bức tranh. Chiếc đồng hồ treo tường đâm nhào xuống sàn, nguyên một hàng sách bị gạt bay lên, và rồi, khi Charlie hé mắt nhìn ra từ dưới gầm bàn, nó trông thấy bức tranh Vua Đỏ rung lắc dữ dội, đập thình thịch vô tường. Charlie vội nhổm người lên và chạy ra chụp bức tranh đúng lúc nó rớt xuống.

“BỎ NÓ ĐÓ!” Cái giọng dơi kinh khủng vang rền.

Nhưng Charlie không đời nào để cho Vua Đỏ rớt. Nó vừa chụp được bộ khung vàng nặng chịch thì con dơi đâm bổ về phía nó.

Chính giáo sư Bloor là người đã vô tình cứu Charlie. Cánh cửa đột ngột bật mở toang ngay trước mặt Charlie, và con dơi tông sầm vô đó. Một tiếng rú kinh khiếp rú lên, bà dơi rớt độp xuống chân ông hiệu trưởng.

“Ôi trời… cái gì… ai?” Giáo sư Bloor cà lăm.

“Đồ ngu!” Con dơi rít lên.

“Ô! Nó là…? Tôi thiệt tình hy vọng đã không…”

“Tôi không ngủm đâu, đừng lo,” con dơi the thé. “Ông yêu cầu tôi giúp đỡ, nhưng ông đã không làm gì nhiều để giúp mình, đúng không? Ông cứ thế để mọi việc mất hết.”

Trước sự khó chịu khôn cùng của giáo sư Bloor, con dơi bò lên chiếc áo chùng của ông ta, cho tới khi lên tới tận vai, và rồi mụ ta quăng mình bắn qua cửa, hét lên:

“Có người sẽ mang tới một sự ngạc nhiên khủng khiếp.”

Khi con dơi vừa đi khỏi, ông hiệu trưởng lắc lắc vai, vuốt lại chiếc áo chùng và nói với bọn trẻ, giờ đang lồm cồm chui từ dưới gầm bàn lên.

“Tiếng động phát ra từ trong phòng này ồn không thể chịu nổi. Manfred, con không thể kiểm soát mọi việc hay sao?”

“Được chứ, thưa ngài,” Manfred nói, bỗng đỏ tím tái lên, “Đây là trường hợp ngoại lệ, thưa ngài.”

“Trời đất quỷ thần, con ướt nhẹp hết kìa!” Giáo sư Bloor nhận ra.

“Thằng Torsson,” Manfred nói.

“Torsson, đi lấy nùi giẻ. Bọn còn lại lau dọn phòng. Và phải IM LẶNG!”

Khi ông hiệu trưởng đi ra thì đã 8 giờ. Và những đứa lớn không hề có ý định sẽ lau chùi đống lộn xộn ấy. Billy cáo lỗi là nó bắt đầu ngủ gật rồi, và Dorcas than van là bị nhức đầu. Lực lượng lao động teo lại chỉ còn năm đứa.

“Luôn luôn là tụi mình nhỉ?” Emma vừa nói vừa xắn tay áo lên.

“Mình tự hỏi ai sẽ tới để gây ngạc nhiên khủng khiếp vậy,” Charlie lẩm bẩm.

“Anh chắc chắn là không lâu nữa tụi mình sẽ biết thôi,” Lysander nói.

***

Vào lúc tám giờ rưỡi, cô Ingledew quyết định là đã tới giờ đưa Ollie tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Đường phố lúc đó sẽ vắng và sẽ ít có nguy cơ thằng bé bị dẫm phải hay bị húc ngã. Cô đã được báo chắc chắn là tất cả mọi việc ở quán cà phê ấy đã sẵn sàng.

“Sẵn sàng như không còn gì để làm, cô thân mến,” giọng nhẹ nhàng của ông Onimous trên điện thoại.

Khi cô Ingledew đóng cửa tiệm sách, cô không nhận thấy một con dơi bự cồ đang treo mình bên trên cửa nhà thờ lớn.

“Cô nghĩ tốt nhất là con nắm lấy tay cô,” cô Ingledew ân cần bảo Ollie. “Cô không muốn lạc mất con. Con có phiền không?”

“Không, phiền gì đâu cô,” Ollie nói. “Cô làm con nhớ tới mẹ con. Đã lâu lắm rồi con không được nắm lấy tay mẹ con.”

Cô Ingledew hơi hốt hoảng khi thấy những ngón tay mình biến mất khi được bàn tay nhỏ bé của Ollie nắm lấy. Nhưng cô tự nhủ rằng cô phải biết đón nhận những việc đại loại thế này chứ, bởi vì cô đã là một phần trong thế giới kỳ lạ của Emma.

Họ vội vã ngược lên đường chính, và rồi xuôi về phía hẻm con Ếch, và mặc dù không trông thấy con dơi bự cồ đang quạt cánh trong những khoảng tối đằng sau lưng, nhưng cả Ollie lẫn cô Ingledew đều cảm thấy hơi tê tê ở sau gáy, như kiểu người ta vẫn hay thấy mỗi khi cảm giác có cái gì đó không minh bạch đang ở ngay đằng sau mình.

Có tới mấy lần cô Ingledew ngoái lại nhìn, nhưng đó là một con dơi ranh ma, và nó liên tục nguỵ trang thành một túi rác dựng bên một cột đèn, thành một tấm bảng hiệu, hay một bậu cửa sổ im lìm. Nên nhớ là, đã có vài người trông thấy rõ ràng một con dơi to bất thường vụt ngang qua cửa sổ nhà họ. Một người đàn ông gọi điện tới sở thú; và một người khác gọi cho Đội Cứu Hộ Thú Kiểng. Nhưng kích thước con dơi mà họ mô tả lại quá lớn nên không ai tin cả. Không có sinh vật nào như vậy tồn tại cả, người ta bảo với họ như vậy; và chắc chắn đó là một khinh khí cầu, một con diều, hay thật táo tợn khi dám nói ra, rằng đó là do thị lực quý vị kém.

Khi cô Ingledew và người đồng hành vô hình tới nơi, quán Cà Phê Thú Kiểng, cô nhấn chuông. Cửa sổ tối om, và mất một phút, tim Ollie như rớt tuột xuống. Rồi cánh cửa cái mở ra, Ollie trông thấy một người đàn ông cực kỳ nhỏ bé, và người đàn ông này đang nhìn thẳng vô mắt nó. Thật là dễ chịu. Bao nhiêu lâu nay Ollie chưa được ai nhìn vô mắt cả. Sự việc đó mở đường cho Ollie cảm thấy mình đã là người trọn vẹn trở lại.

“Đây là Ollie,” cô Ingledew nói, giơ những ngón tay bị biến mất của mình lên.

“Đúng rồi,” ông Onimous nói. “Rất vui được gặp cậu, Ollie. Vô đi, cả hai người!”

Ông Onimous dẫn đường băng ngang quán cà phê tối mù, tới một nhà bếp ấm cúng ở phía sau, tại đây Ollie ngạc nhiên trông thấy ba con mèo rực rỡ đang ngồi trên một tủ đông, một con chó vàng đang ngủ gà gật trong một cái ổ, và một người phụ nữ cao nghều đang làm bánh bột nhào, trong khi một con chuột đen từ trên vai bà ngó xuống coi.

“A ha!” Người phụ nữ cao nhòng kia nói, bà có cái mũi cực dài. “Kẻ biến mất! Chào mừng cậu, Ollie Sparks. Tên bác là Onoria, cậu nhỏ à, là bác Onimous gái.”

Mắt bà hơi dao động một tí khi kiếm điểm để tập trung nhìn. Rõ ràng bà không xuất sắc bằng chồng trong việc đoán xem người vô hình đang đứng ở đâu. Nhưng sau đó thì bà đã làm được tốt.

Ollie không thể không tự hỏi làm sao mà một người đàn ông nhỏ như thế lại chọn một người phụ nữ cao như vậy làm vợ. Trong những dịp thông thường, ắt hẳn Ollie đã hỏi rồi, nhưng đây không phải là dịp thông thường. Thay vào đó, nó nói:

“Nó ở đây à… con trăn ấy?”

“Phải, cậu nhỏ,” bà Onimous chỉ một cái giỏ to ở gần sát chân bà. “Bác luôn phải hát cho nó nghe. Con vật tội nghiệp đó đã sống một cuộc đời chẳng dễ dàng gì.”

“Tôi tự hỏi,” cô Ingledew rụt rè nói, “Có thể uống một tách trà trước khi chúng ta… à… trước khi việc này xảy ra được không?”

“Tôi nghĩ sao mà lại thế này?” Ông Onimous thốt lên. “Phép lịch sự, Orvil, phép lịch sự. Xin mời ngồi, cô thân mến.”

Ông đưa ra một chiếc ghế, và cô Ingledew ngồi xuống với vẻ biết ơn.

Ollie nói nó nên đứng để “chữa trị” thì tốt hơn. Nó nghĩ con rắn sẽ thấy cách đó dễ dàng hơn.

“Con có thể gặp nó bây giờ được không?” Nó hỏi.

Bà Onimous nhấc nắp của chiếc giỏ ra, và Ollie chong mắt ngắm con trăn dễ sợ mà trước kia đã quấn nó thành vô hình. Con trăn này không hoàn toàn giống như Ollie nhớ. Bộ da màu ngọc bích sáng tươi của nó đã nhạt đi, và bây giờ nó có màu xanh da trời óng ánh bạc, dịu mắt. Và hình như nó cũng hơi co lại, có cái gì đó trong dáng điệu của nó tỏ ra thân thiện hơn và nhẹ nhàng hơn.

Cái đầu óng ánh bạn của con trăn đột ngột ngóc lên, và nó kêu chiếp chiếp như chim. Ollie bật lùi lại.

“Con vật dễ thương quá hả?” Bà Onimous thở dài. “Các quý vị dùng trà với sữa và đường nhé?”

“Vui lòng cho sữa thôi,” cô Ingledew nói.

Còn Ollie thì bảo:

“Không ạ, cảm ơn. Hồi nữa con mới khát kìa.”

Trong khi cô Ingledew và gia đình Onimous nhâm nhi trà, Ollie bước đi loanh quanh cái giỏ mây. Con rắn dõi theo thằng bé bằng đôi mắt đen, tí rị của nó. Rõ ràng là nó có thể trông thấy thằng bé. Khi Ollie đứng im, con trăn uyển chuyển trườn ra khỏi cái giỏ mây bà bắt đầu quấn quanh hai mắt cá vô hình của thằng bé. Ollie nín thở.

“Ông có nghĩ là nó biết phải làm gì không?” Bà Onimous thì thầm.

“Thì cứ hy vọng đi,” ông chồng nói. “Cậu đã sẵn sàng rồi chứ, Ollie?”

“Dạ rồi. Rất sẵn sàng,” Ollie đáp. “Con đã nghĩ tới chuyện gặp lại anh của con. Con cũng nghĩ tới chuyện con sẽ về lại Lâu đài Lấp Lánh. Lâu đài đó luôn sáng lấp lánh vì anh và ba của con có thể thắp lửa từ đá, hai bác có biết chuyện đó không?”

“Còn con có thể làm được gì?” Bà Onimous hỏi.

Bà Onimous nghĩ tới Ollie như một bệnh nhân, cần phải được chia trí cho quên đi cái công việc đau đớn đang được thực hiện trên thân thể.

“Con chỉ biết chơi sáo thôi,” Ollie nói, vào lúc này nó chẳng cảm thấy đau đớn gì hết.

“Bác rất mong được nghe con chơi,” bà Onimous nói.

Con trăn đang quấn mình thành từng vòng, từng vòng trong không khí. Tuy nhiên, không thấy một cái gì bên trong vòng cuốn của nó.

“Giờ con sẽ nhắm mắt lại,” Ollie nói, “để nếu rủi mà không được gì thì con không bị thất vọng, hai bác với cô biết đó.”

“Đương nhiên,” những người lớn nói.

Cô Ingledew đặt tách trà của mình xuống. Cô không thể quan sát. Thật quá sức. Cuộc thí nghiệm sẽ không thành. Ollie tội nghiệp sẽ vô hình vĩnh viễn. Nhưng cô đã quyết định mình có thể làm được gì. Cô sẽ đưa Ollie đến tiệm sách và gọi điện cho cha mẹ nó. Dẫu sao một cậu bé vô hình vẫn tốt hơn là không có cậu bé nào cả. Và rồi cô trông thấy bàn chân. Trước tiên là bàn chân có con nhện ở ngón cái. Sau đó là chân kia. Chân đất, coi bộ lạnh, hết sức cần có vớ và giày.

“Hai cẳng chân kìa,” ông Onimous nói khẽ.

Đáng ra ông phải la lên kìa, bởi vì con Hạt Đậu, bị xúc động trước những việc tưởng không thể xảy ra được lại đang diễn ra, cứ nhảy chồm lên và bắt đầu sủa.

“Hấp, anh chàng ngoan coi nào,” bà Onimous nói.

Hạt Đậu rừ rừ và nằm xuống, cứ trợn mắt thao láo dòm cái quá trình mà Ollie mỗi lúc mỗi hiện ra rõ. Những con mèo lửa tỏ thái độ như thể trước kia chúng đã từng chứng kiến mấy vụ này rồi. Chúng vẫn im lặng, nhưng cảnh giác.

“Ôi, tội nghiệp thằng bé, trông cái quần nó kìa,” bà Onimous nói, chú ý tới mảnh vải rách te tua gần như không che được hai đầu gối của Ollie.

Con rắn đang leo lên cao hơn, và bây giờ họ có thể thấy một cái áo len chui đầu màu xám sờn tưa, nhỏ hơn cỡ người của chủ nhân ít nhất là hai cỡ, những cổ tay gầy guộc lồi ra thật xa cái ống tay áo mòn xơ xác.

“Trời ơi!” Ông Onimous thốt lên khi cái cổ con trăn cuộn quanh một cái đầu tóc nâu rối tung. Một khuôn mặt hiện ra giữa những món tóc nâu, dài; nó có hai con mắt to, màu xanh da trời, thâm quầng, một cái miệng nhỏ nhắn, và một cái mũi phờ phạc, trông rất tọc mạch.

“Ôi!” Cô Ingledew thở hắt ra. “Ollie!”

Con trăn bao quanh đầu Ollie cho tới khi trông nó giống như một cái khăn xếp[2] sáng loáng, và lông mày Ollie nhướng lên đầy ngạc nhiên, phấn khích.

[2] Khăn xếp: loại khăn đội đầu của người Hồi giáo.

“Con trở lại rồi hả?” Nó hỏi. “Con cảm thấy như mình đã trở lại rồi.”

“Chính thế,” ông Onimous nói. “Cậu rất khoẻ mạnh và hiện hình thật rồi, Ollie Sparks. Chúc mừng!”

Có lẽ nên vỗ tay mừng, và thế là, tất cả mọi người đều vỗ tay, kể cả Ollie, tuy rất nhẹ, do nó sợ con trăn.

Con trăn có vẻ kiệt sức sau những cố gắng của mình. Quả đúng là kiệt sức, nó nhắm mắt lại và rút vô một vị trí thoải mái ở trên đầu Ollie.

Bà Onimous nhấc con vật ra khỏi Ollie và đặt nó trở vô trong chiếc giỏ.

“Chúng ta phải ăn mừng thôi,” bà nói. “Orvil, pha thêm một bình trà nữa đi. Để tôi đi kiếm một ít bánh.”

Sau một giờ thật đáng hài lòng, với rất nhiều quyết định được đưa ra, cô Ingledew rời quán Cà Phê Thú Kiểng và bươn bả trở về tiệm sách của mình. Cô biết Ollie đang ở trong những vòng tay chăm sóc tốt – nó đang tắm cữ đầu tiên của mình sau hơn một năm. Bà Onimous đã lo trước hết mọi việc. Thằng bé tội nghiệp sẽ có những bộ quần áo mới. Nó sẽ được cắt tóc, và nó sẽ được tẩm bổ, được nghỉ ngơi trước cuộc hành trình dài trở về lại Lâu đài Lấp Lánh, nhà của nó.

Cô Ingledew rất mãn nguyện về kết cục của mọi việc. Cô bắt đầu ngâm nga một bài hát ưa thích nhất của mình. Khi tới ngã tư, suýt nữa thì cô quẹo vô đường Filbert. Chắc chắn cô muốn chia sẻ niềm vui này với Paton Yewbeam, nhưng việc này không thể được, lời buộc tội của nội Bone vẫn còn làm cô lấn cấn.

“Mình không phải là kẻ theo đuổi,” cô Ingledew khẽ lẩm bẩm. “Và mình sẽ không để bị coi là kẻ theo đuổi.”

Cô tiếp tục bước đi, giờ có hơi chậm bước một chút, và hơi nguôi giận, hoàn toàn không nhận thấy con dơi lớn vẫn đang bám theo cô. Ẩn mình vô bóng tối, nó cứ bay đằng sau cô, tới phố nhà thờ, và rồi nó bám vô một ống thoát nước, quan sát cô Igledew bước vô tiệm sách và khoá cửa lại.

Con dơi bay tiếp, xuôi xuống Vòng Cung Ụ Xám, và vô hẻm Ngách Tối. Nó lượn loanh quanh và vỗ cánh phầm phập phía mặt ngoài mái nhà, rồi chui tọt vô một cửa sổ để mở ở tầng trên căn số 13 thứ ba.

Một loáng sau, mụ Yolanda Yewbeam, không còn là con dơi nữa, bước vô phân xưởng may dưới tầng hầm của bà Venetia, chắt gái của mụ.

“Tuyệt”, mụ lẩm bẩm khi chiêm ngưỡng những bộ quần áo nằm rải rác trên chiếc bàn dài của bà Venetia. Có những chiếc áo chùng xanh da trời và xanh lá cây, những áo đầm lụa, áo khoác và quần chẽn nhung, những đôi vớ da đủ màu, áo lót, áo sơ-mi, diềm đăng ten, khăn len đội đầu, cùng tất cả những dây nịt và giày thật đỏm dáng.

Bà cô Venetia đang bận đính những khoen xê-quin quanh vạt một chiếc váy đen, dài. Phía bên kia, ở mép bàn, là một đống những hộp thiếc, hũ với hộp. Thỉnh thoảng bà ta lại nhúng những ngón tay vô một trong những đồ chứa đó, bốc ra ít hạt bột màu, một chút thảo mộc, hay vài chấm chất lỏng. Bà ta sẽ bôi những thứ đó vô mặt trái của những khoen xê-quin trước khi đơm chúng vô.

“Làm xong áo chùng chưa?” Mụ Yolanda hỏi.

“Chưa ạ” Bà Venetia ngước lên, hơi giật mình.

“Tao đoán nếu tao là con bé xinh đẹp đó thì mày thích hơn,” mụ Yolanda nói, tuổi tác và tâm địa độc ác của mụ đã phơi bày rõ rệt trong đêm nay.

“Không phải, thưa cụ. Cụ làm con ngạc nhiên, thế thôi.”

“Tao mệt quá,” mụ Yolanda nói. “Tao bám theo cái con mẹ chõ mũi đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Nó đang giữ thằng bé, tao chắc chắn điều đó. Nó đã nấu mất con ngỗng của bọn ta. Grizelda nói đúng, con đó phải đi đời. Và cả đứa cháu gái khốn kiếp biết bay của nó nữa.”

“Cụ gắn dây nịt chưa?”

“Đứa bạn nhỏ Dorcas của chúng ta đang lo liệu việc đó.”

“Tốt. Cụ ngồi xuống đi. Bỏ mệt nhọc qua một bên nào,” bà Venetia kéo ra một chiếc ghế.

“Tao muốn làm cái áo chùng,” mụ Yolanda gằn giọng.

Mụ ngồi xuống đằng sau chiếc máy may và kéo chiếc áo chùng xanh lá cây về phía mình.

“Cái thằng du côn, cái con thú ranh đó nó tưởng nó quáááá… tài giỏi. Hừ, rồi nó sẽ suy nghĩ khác cho coi.”

“Ai vậy, thưa cụ?”

“Cái thằng Torsson. Dám gọi ta là mụ phù thuỷ xấu xí. PHÙ THUỶ!” Mụ Yolanda thét lên.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận