“Cút khỏi đây, Torsson,” Asa ngáp ngáp cái miệng phả đầy hơi lạnh. “Mày không có thú cưng.”
“Hừ, tao thì có,” Lysander hét.
“Tụi tao muốn biết nó đã làm gì với bọn thú của tụi tao,” Dorcas rít rú, bấu chặt lấy cánh tay rắn chắc của Bragger Braine.
“Nói mau!” Idith và Inez thét át luôn tiếng gió hú. “Nói mau! Nói mau! Nói mau!”
Charlie bịt tai lại, cảm thấy bốn con mắt của hai đứa song sinh chọc vào mình. Lysander và Tancred cũng cảm nhận uy lực của tia nhìn từ những con mắt đen đó. Cả ba đứa lùi lại, rồi lùi thêm bước nữa. Không để bị phủ đầu, Tancred tung ra một đòn khác. Một cơn mưa bất chợt đổ xuống đám lau nhau, dội chúng ướt đến tận da.
Há khấc mồm ra sững sờ, đám đông bắt đầu giải tán, bỏ lại những đứa trẻ được ban phép thuật đứng với nhau thành chiến tuyến rạch ròi. Asa, Joshua, Dorcas và hai đứa sinh đôi, tóc nhểu nước rườn rượt, áo quần ướt sũng và mặt mũi lấm lem nước, trừng mắt nhìn Charlie đang không sao ngăn được mình khỏi cười nụ.
Không hề báo trước, Joshua Tilpin xông thẳng vào Charlie. Bị mất cảnh giác, Charlie té ạch xuống đất, với Joshua đè lên người nó. Hai thằng ôm nhau lăn lộn dưới cỏ ướt, hết vòng này tới vòng khác.
Nhận định rằng kích thước của Charlie đủ cho nó một lợi thế rõ rệt, Tancred và Lysander cho phép trận đấu vật tiếp diễn. Joshua là một thằng lẻo khẻo, chúng biết thằng này đừng hòng có cơ may thắng được Charlie. Tuy nhiên những đứa phe kia lại đinh ninh tài phép của Joshua sẽ cho nó sức mạnh cần thiết hầu để bắt Charlie Bone phun ra sự thật.
“Nói mau! Nói mau! Nói mau!” Chúng nhao nhao hò hét. “Những con thú của tụi tao đâu?”
“Tao không biết,” Charlie giáng một đấm xuống cái vai gầy guộc của Joshua.
Thêm ba thằng nữa chạy đến hiện trường: Gabriel, thở không ra hơi, nhai nhai nắm đấm của mình, Fidelio lải nhải “Chuyện gì thế?” và Billy rón rén ló ra giữa hai thằng lớn, lo lắng ngọ nguậy co hết chân này đến chân kia.
Uỵch nhau với Joshua mà tựa như phải đẩy cả tấn gạch. Cớ sao một thằng bé còm nhom mà lại nặng thế này? Charlie tự hỏi. Nó đấm túi bụi vào lưng đối phương, nó kéo rị đôi cánh tay khẳng khiu, đá cặp giò như que củi của Joshua. Nhưng Joshua dường như đã hút hết năng lượng ra khỏi người nó. Khi thằng này nằm đè lên ngực Charlie, nó cảm thấy có một bức tường khổng lồ đang ép hết sự sống ra khỏi người mình. Nó ráng giữ hơi thở, bàn tay cào khoắng không khí và rồi, bằng một nỗ lực thần kỳ, nó vung nắm đấm lên, tương một cú trời giáng vào mặt Joshua.
“Aieeee!” Tiếng rống của Joshua rung chuyển mặt đất. Nó lăn khỏi Charlie, ôm chụp lấy mũi.
Charlie lảo đảo đứng lên. Nó cảm thấy có năm bàn tay vỗ mạnh vào lưng mình và suýt nữa thì ngã vập mặt xuống trở lại.
Lysander hú lên báo hiệu chiến thắng, “Giỏi lắm, Charlie!”
“Đáng đời thằng oắt ghẻ,” Tancred thêm.
Joshua vẫn nằm dưới đát, kêu khóc thảm thương. Dorcas giúp nó đứng lên và nó cứ thế đứng trừng trừng nhìn Charlie trong khi lau cái mũi đầy máu. “Một ngày nào đó tao sẽ thịt mày, Charlie Bone,” nó gầm gừ. Giọng nó sực nức mùi đe doạ, nhưng bộ dạng nó lại thảm hại quá chừng, khiến Fidelio bật lên cười khanh khách.
“TRÒ DÁM HẢ!” Không đứa nào nhận ra cô Chrystal đã băm bổ đi tới.
“Trò, Fidelio, tất cả các trò! Sao lại dám cười nhạo một đứa trẻ bị thương?” Cô quay qua những đứa khác. “Chuyện gì xảy ra vậy?”
Tất cả bọn chúng cùng gân cổ nói một lúc, một bên buộc tội Charlie, bên kia phủ nhận, bảo nó chẳng làm gì sai trái cả.
Cô Chrystal giơ tay lên, “Asa, trò là huynh trưởng. Tại sao trò không ngăn vụ đánh nhau lại?”
Asa luống cuống trong thoáng chốc. Cuối cùng hắn mới láp nháp, “Em đã cố, nhưng đám này,” nó chỉ Dorcas và chị em sinh đôi “muốn biết tại sao đám kia,” nó chỉ Charlie và các bạn “đem được thú về. Thưa cô, nói chung mọi người tin rằng Charlie Bone đã làm gì đó liên quan đến việc bọn thú biến mất.”
Cô Chrystal quay ngoắt lại và lạnh lùng ngó Charlie, “Đúng không?”
Charlie bị sốc vì nét biểm cảm trên gương mặt vốn thường ngày xinh đẹp của cô Chrystal. Trông cô lạnh băng và ác nghiệt. Đôi mắt xanh da trời nhạt của cô hơi nhíp lại và cái miệng duyên dáng của cô biến thành một sợi chỉ mỏng dính.
“Em không dính dáng gì đến chuyện bọn thú đi hay về,” Charlie tuyên bố.
Cô Chrystal trừng mắt nhìn nó thêm một lát nữa và rồi ngoa ngoắt bỏ đi, không nói thêm lời nào. Thật tò mò hết sức, Joshua chạy theo cô. Nắm níu tay cô, nó bù lu bù loa, “Em bị thương. Cô phải làm gì đi chứ.”
Cô Chrystal dừng lại và hạ thấp giọng nói với nó. Charlie không thể nghe được lời nào, nhưng nó nghĩ cô nói, “Bình tĩnh, Josh. Nên nhớ chúng ta là ai.”
Cánh tay Joshua rớt thõng xuống hông và nó nhìn gằm xuống đất, cắn môi.
Tiếng tù và rúc lên báo hiệu hết giờ giải lao, và khi tất cả mọi người hướng về cánh cửa, Charlie thấy cô Chrystal vuốt tóc Joshua. Cô nhìn lên và bắt gặp Charlie đang nhìn mình. Lần này thì mặt cô lộ vẻ căm ghét thẳng thừng.
“Hiệp 1 nghiêng về em, Charlie,” Fidelio reo ầm khi chúng bước vào tiền sảnh. “Giỏi lắm!”
Một cái gì đó mách bảo Charlie rằng sẽ còn nhiều hiệp đấu nữa và không có gì đảm bảo lần tới nó sẽ thắng.
Mẹ của Charlie, vào lúc đó, đang phụ bác Gunn dọn dẹp cái nhà bếp hỗn độn của bác. Mặc dù lộn xộn và rối tinh rối mù, cô Amy vẫn thấy đây là một nơi rất thoải mái. Bác Gunn đã trở thành người bạn thân, có lẽ là duy nhất của cô, và cô Amy thường ghé vào thăm bác sau khi đi làm về.
Cô Amy cầm lên cây đàn ghi-ta dựng chông chênh vào miệng của mười cái ca cốc đủ loại trên bàn bếp. Rồi đặt cây đàn xuống cạnh chiếc đàn basstrong tủ chén đĩa. Sau đó, đạp trượt phải một con dao phết mứt, cô cúi xuống nhặt nó lên, tiện thể nhặt luôn ba con dao khác, hai cái thìa dơ và một cái lõi táo.
“Em không biết làm sao mà chị quán xuyến nổi việc nhà, chị Chloe,” cô Amy thả mớ dao kéo vào bồn rửa đã đầy ắp đĩa chén thành một chồng cao nghệu. “Tám đứa trẻ để mà đi theo dọn dẹp. Ngay khi vừa dọn xong đống này thì chúng đã trở lại uống trà, rồi lại phải dọn dẹp từ đầu.”
“Không có Fidelio,” bác Gunn quét cốm bắp ra khỏi ba chiếc ghế. “Nó ở Học viện Bloor rồi, em nhớ không. Còn Felix dạo này vắng nhà luôn, đi với ban nhạc của nó, vì vậy chỉ còn lại sau đứa.” Bác dời một ống sáo và ba quyển sách nhạc khỏi chỗ bày thức ăn chuẩn bị đem nướng và nhét chúng vào máy giặt.
“Để chúng trong đó có an toàn không?” Cô Amy ngại ngùng hỏi.
“Cực an toàn,” bác Chloe bảo. “Con Pudding ở trong đó và nó sẽ cho chị biết nếu chị chuẩn bị giặt.”
Tức khắc một con mèo xám to đùng nhảy vọt ra khỏi máy giặt.
“Ố ồ,” bác Chloe vui vẻ nói. “Chúng ta uống cà phê đi.”
Cô Amy chùi một vệt bơ khỏi một chiếc ghế và ngồi xuống. Bác Chloe hát trong khi đổ nước vào ấm. Xem ra bác hát suốt ngày, giống như chồng bác, một giáo viên dạy nhạc cho trường học địa phương. Mỗi đứa con của họ đều là nhạc công, nhưng Fidelio là một ngôi sao. Một thiên tài âm nhạc. Bác Chloe biết chắc thằng con thứ tư của mình sẽ tiến rất xa.
Bên ngoài cửa sổ nhà bếp có thể nhìn thấy một hàng thảo mộc xanh rì, mọc lên từ những chậu sành. Lạy thánh Alas, loại lá mà cô Amy đến xin đã biến mất rồi.
“Ai đã lấy cỏ roi ngựa đi vậy?” Cô Amy hỏi, nhấp một ít cà phê.
“Không biết,” bác Chloe nói. “Chỉ hai đêm trước thôi, chị còn hái một ít cho vào món sà lách mà. Chị xin lỗi, Amy. Em định làm gì tiếp theo đây? Em không thể để mẹ em trong bồn tắm đến vô hạn định được.”
Cô Amy thở dài tuyệt vọng, “Ồ, chị Chloe, em không biết phải làm gì nữa.”
“Chị nghĩ em nên đi tới gặp người quản lý Vương Quốc đi. Nếu có ai bỏ gì vô tôm của cửa hàng thì cửa hàng đó phải chịu trách nhiệm.”
“Họ nói họ không làm.”
“Thế thì báo cảnh sát,” bác Gunn khuyên.
“Em không thể. Chị không thấy… đó là… là bùa phép sao. Bác sĩ Tanaka đã nói rõ rồi. Cảnh sát không thể đối phó được với bùa chú,” cô Amy uống cạn tách của mình. “Em phải về đây, chị Chloe. Em không thích để ngoại Maisie một mình quá lâu. Không chừng bà đã tan chảy rồi, và bà sẽ hoảng sợ lắm nếu phải ở một mình.”
“Nhất là khi bà mẹ chồng của em đang rình rập,” bác Chloe nghiêm trang.
Cô Amy dự định về thẳng nhà, tuy nhiên khi cô thấy mình đang bước đi trên Phố Chính, dường như có một ma lực xui khiến cô phải quay qua nhìn toà nhà lộng lẫy bên kia đường. Hàng cột cẩm thạch màu xanh lá cây dựng hai bên lối vào, và tất cả chín mươi chín cửa sổ của nó đều lung linh ánh sáng dìu dịu, thứ ánh sáng báo cho thế giới biết rằng căn phòng bên trong đó cất giữ những báu vật mà hầu hết người ta chỉ dám mơ mà thôi.
Cô Amy băng qua đường. Cô bước vào lối khuất đằng sau những cây cột. Cẩm thạch vàng óng và xanh lá cây lượn xoáy ở trên đầu và bên dưới chân cô. Hai người gác cửa mặc áo gi-lê xanh lá cây và đội mũ chóp cao sáng nhấp nhoá đứng hai bên cánh cửa gỗ sồi lên nước bóng lộn. Ngón tay đeo găng của họ đặt hờ lên tay nắm cửa to bằng đồng.
“Bà muốn vào ạ, thưa bà?” Một trong hai người gác cửa hỏi bằng giọng lạnh nhạt.
“Phải,” cô Amy trả lời dứt khoát.
Anh ta buộc phải mở cửa ra.
ooOoo
Huơ bên trên quầy. Cô Amy tự hỏi liệu những bàn tay ấy có được tuyển lựa một cách đặc biệt hay không.
Cô quyết định đến chỗ đôi bàn tay trông coi quầy nữ trang. Dẫu gì cô cũng đang đeo chiếc nhẫn mà có thời từng nằm trưng ở trên đúng cái quầy ấy. Cúi lom khom dưới cây đèn lồng, cô ngước lên nhìn gương mặt ẩn khuất của ai đó tóc vàng, trông nghiêm sắt lại.
“Tên tôi là Bone,” cô Amy nói, “và tôi muốn nói chuyện với người quản lý.”
ooOoo
Cô Amy không hề biết rằng mình đang bị ai đó ở lầu trên cùng theo dõi qua mười hai hệ thống giám sát khác nhau. Cô không nhận thức được rằng cho dù với chiếc áo khoác đông xoàng xĩnh, không trang điểm, hoặc mái tóc chải không hợp cách, trông cô vẫn rất xinh đẹp.
“Ông chủ muốn gặp bà,” người bán hàng tóc vàng dằn mạnh điện thoại của cô ta xuống quầy.
“Ông chủ…” cô Amy ấp úng. “Ông chủ ư, tôi không biết ông ấy sống ở đây. Tôi chỉ muốn nói chuyện với người quản lý.”
“Lầu trên cùng,” người bán hàng gằn giọng. “Thang máy ở đằng kia.” Cô ta chỉ một mảng sáng đằng xa.
“Cảm ơn,” cô Amy bắt đầu nghĩ phải chi mình đừng đi vào Vương Quốc. Rốt cuộc thì có ai làm được gì đâu! Người ta không cách chi phá được bùa yểm. Trừ phi, ờ phải, có một thầy pháp lẩn quất đâu đó ở lầu trên cùng.”
Cô tới thang máy và nhấn một nút. Cánh cửa mở ra và cô bước vào một cái buồng nhỏ bốn bề lát gương, sàn lát cẩm thạch và trần trang trí những loài chim bằng vàng. Thứ chim sống động trông y như thật – ngoại trừ cái màu vàng kim quá chói.
Cô Amy ra khỏi thang máy ở lầu trên cùng. Bây giờ cô đang đứng trên lớp lông mao màu đen ngập gần đến mắt cá – lông con gì thì cô không sao đoán được. Cánh cửa phía bên phải cô mở tung và một người đàn ông bước ra – một người đàn ông đẹp nhất mà cô Amy từng thấy. Cô vuốt tóc, khép lại mép áo khoác và liếc nhìn đôi giày nhếch nhác của mình.
Người đàn ông gật đầu nhẹ một cái. “Cô Bone?” ông ta tóc nâu, nhưng không hiểu làm sao mà trông như khối vàng thật. Mặt ông ta rám nắng và mắt sâu thẳm xanh màu ô-liu.
“Phải, đúng rồi. Tôi là bà Bone,” cô Amy rụt rè nói.
Người đàn ông cúi đầu, và khoát rộng một cánh tay ra, ông ngụ ý bảo cô nên bước vào phòng.
Cô Amy cày qua thảm lông đen và bước vào căn phòng trải thảm, lần này là bằng lông trắng.
“Ồ,” cô thốt lên, nhìn xuống, “Sao…”
“Har… Hart Noble,” người đàn ông cầm bàn tay cô và cúi xuống nó như một con thú đói. “Thảm đó là Gấu Bắc Cực.”
Cô Amy há hốc mồm, “Nhưng tôi tưởng…”
“Mời cô ngồi,” ông ta nhẹ nhàng cởi áo khoác cho cô.
Cô Amy ngồi xuống mép một chiếc ghế xô pha mà xem ra là bọc… lẽ nào, bọc da ngựa lùn?
“Hãy cho tôi biết rắc rối của cô,” ông Hart ngồi xuống bên cạnh cô. Ông ta mặc áo sơ mi may bằng vải lụa trắng và áo gi-lê mà chắc hẳn là bằng da hải cẩu.
Trong khi cô Amy kể cho ông ta nghe về ngoại Maisie bị đông cứng và con tôm he đáng nghi, ông Hart cầm tay cô và khoan xoáy vào mắt cô. Cô cảm thấy mình đang chết chìm dần trong một cái hố sâu màu xanh lá cây. Vào lúc kết thúc câu chuyện của cô, ông ta đứng lên lấy hai ly rượu sâm banh từ một cái bàn bằng ngà voi ở đằng cuối căn phòng.
Cô Amy nhấm nháp ly rượu của mình và nhìn quanh. Căn phòng được lát gương hoàn toàn, và từng món đồ đạc xem ra đều được làm từ một loài thú nào đó – ngà, xương, da, lông mao và lông vũ. Giá như lắng nghe kỹ lưỡng thì ắt hẳn cô có thể nghe được tiếng kêu ai oán của chúng. Nhưng cô Amy đang rơi vào một thứ bùa mê.
Ly sâm banh thứ hai được rót ra. Nhìn bóng mình trong gương, cô thấy một người mà cô hầu như không nhận ra: một phụ nữ tuyệt đẹp, tóc bóng mượt và mắt lấp lánh; thậm chí cả chiếc áo len cũ kỹ màu hồng của cô trông cũng mới.
Ông Hart đưa cho cô một dĩa đựng những viên đồ ăn nhỏ xíu được bọc một lớp men cay xè. Cô Amy ăn ngấu nghiến, rên lên vì sung sướng. Khi ông ta bảo cô chúng được làm từ thịt chim ó, cô không hề dựng một cọng tóc nào.
Ông ta thuyết phục cô Amy kể chuyện đời mình, thế là cô thấy mình nhớ ra những điều tưởng chừng đã quên từ bao năm rồi. Cô không nhận thấy ánh sáng nơi các cửa sổ đã nhạt nhoà, và chỉ nhận ra mình đã nói chuyện lâu lắm rồi khi thấy mình ngồi trong ánh nến.
“Trời ơi, chết rồi, trễ quá rồi,” cô Amy đứng lên, có vẻ không vững.
Ông Hart giúp cô mặc áo khoác vào và hộ tống cô ra thang máy, “Tạm biệt,” ông ta nói, lịch duyệt gởi đi một nụ hôn gió.
Cô Amy bước ra khỏi cửa hàng trong trạng thái mê man. Bên ngoài, vỉa hè sáng rỡ trong màn sương. “Đẹp quá,” cô hét to lên. “Tôi đang bước đi trên những vì sao.”
“Sao?” Một bà lớn tuổi đi ngang qua, hỏi lại. “Trời lạnh héo rụi đi thì có. Cô bị bỏ bùa rồi.”
Về tới nhà, cô Amy đi thẳng lên phòng mình và tháo chiếc nhẫn kim cương ra.
Một cơn đau xóc khiến Charlie nhăn mặt.
“Gì thế? Ăn quá nhanh à?” Fidelio trêu.
Chúng đang ngồi trong căn-tin sau bữa trà. Tất cả những đứa khác đều đã đi rồi, ngoại trừ Billy, lúc đó đang thập thò lén đưa Rembrandt cho bà bếp trưởng.
“Em nghĩ mẹ em gọi đó là chứng khó tiêu,” Charlie nói, xoa xoa ngực. Nhưng nó không chắc đó là cái quỷ gì. Và nó không biết tại sao, khi cơn đau qua đi, nó có cảm giác như vừa bị mất một thứ gì đó rất quý giá.
Bà bếp trưởng vòng qua quầy tới ngồi bên bàn chúng.
“Có chuyện gì xảy ra thế, Charlie?” Bà hỏi. “Tin đồn bay tới tấp. Nghe nói có một số con thú đã trở về – một số con rất đặc biệt mới được về. Trong đó có con Hạt Đậu, con vẹt của Lysander, rồi vịt Nancy, đàn chuột của Gabriel, vân vân. Chẳng biết vì sao mà tất cả mọi thú khác vẫn còn mất tích vậy?”
“Con May Phúc ở đây mà,” Charlie nói một cách lảng tránh.
“Tất nhiên. Ta xác nhận điều đó. Tuy nhiên, không biết có cái gì đó đã làm nó sợ cứng cả người.”
“Cháu không nghĩ Charlie sẽ kể gì cho chúng ta đâu,” Fidelio nói. “Ngay cả cháu cũng không biết.”
Bà bếp trưởng lắc đầu, “Con không đi đâu và thề một lời nguyền ngớ ngẩn nào đấy chứ, Charlie?”
“Không hẳn,” Charlie nói.
“Ừ, cẩn thận nha. Có kẻ đang tính chuyện rắc rối đấy. Tốt hơn con nên nghĩ ra một câu trả lời cho gia đình Bloor đi, kẻo họ lại ép con phải cung khai bằng cách thức chẳng thân thiện gì đâu.” Bà bếp trưởng quay vào nhà bếp, một tay che che cái túi to trước tạp dề của bà. “Được rồi, vài phút nữa mày sẽ có bữa tối nhé,” bà nói với cái túi khi biến mất vào cánh cửa quay.
Cái chuyện rắc rối đang được trù tính kia đã bục ra ngay sau bữa tối. Thay vì giải tán bọn trẻ sau khi chúng ăn tối xong, tiến sĩ Bloor vỗ tay bộp bộp để giữ im lặng và bắt đầu bước vòng ra khỏi cái bục kê bàn giáo ban.
Từ ba dãy bàn dài trong sảnh ăn tối, ba trăm đứa trẻ nhìn ông hiệu trưởng mặc áo chùng đen, đầu cúi, tay chắp sau lưng. Đó là một người đàn ông cao lớn, có bộ ria mép xám được tỉa tót rất khéo và mái tóc màu xám sắt hớt ngắn cụt. Hôm nay mặt ông ta đỏ ran. Cuối cùng, khi dừng lại, ông ta nhìn trờn trợn vào lũ trẻ ở bàn khoa Kịch, thẳng ngay trước mặt mình.
“Không ai trong số các trò lại không thể nhận ra rằng tai họa đã giáng xuống thành phố này. Hả?” Ông ta ghé một tay ra sau tai. “Các trò nói sao?”.
“VNG, thưa ngài,” tiếng bọn trẻ áo chùng tím hét vang.
Tiến sĩ Bloor nhích về phía bên phải cho tới khi đến chính giữa cái bục. “Còn các trò thì nói sao?” Ông ta chất vấn bọn trẻ khoa Hội Hoạ.
“VNG, thưa ngài,” tiếng bọn trẻ áo chùng xanh lá cây gào tướng.
Tiến sĩ Bloor sàng thêm vài bước nữa qua bên phài. Lúc này ông ta đang đứng ngay trước mặt Charlie – vừa rồi nó là đứa cuối cùng đi vào phòng ăn và bị buộc phải ngồi vào một trong những chỗ xui xẻo ở ngay bên dưới bàn ăn của giáo viên. Fidelio ngồi đối diện nó.
“Thế còn trò?” Vùng da đỏ rân của tiến sĩ Bloor tối đi. “Trò có nghe nói về nỗi khổ của thành phố không?” Lão nhìn xuyên xoáy vào Charlie.
Charlie nghĩ câu hỏi này mang tính cá nhân nên hỏi lại, “Ý ngài nhắc đến những con thú ạ, thưa ngài?”
“Dĩ nhiên ta ám chỉ tới những con thú,” Tiến sĩ Bloor hơi nhảy đổng lên giận dữ. “Thằng ngu.”
“Nếu thế thì con có nghe, thưa ngài,” Charlie đáp.
Những đứa khác bên bàn khoa Nhạc nhịp thêm, “Có, thưa ngài.”
Thế là ông hiệu trưởng liền giao giảng thật bất ngờ. “Dĩ nhiên, thật là thảm hoạ khi mọi con vật thân yêu đều biến mất. Thật là nỗi đau khổ khôn cùng đối với những người già, những người mà chỉ có con thú làm bạn duy nhất của mình. Tuy nhiên,” tiến sĩ Bloor đi đi lại lại trên bục, “đôi khi chuyện đó xảy ra và không ai có thể làm được gì.”
Charlie lóng ngóng. Phải chăng ông hiệu trưởng biết cái gì gây ra vụ thú bỏ chạy? Có vẻ như ông ta không hề ngạc nhiên về chuyện chúng biến mất.
Tiến sĩ Bloor thình lình quay đánh phắt và bước trở lại đứng ở vị trí ngay trước mặt Charlie. “Nhưng không thể tha thứ khi có người tìm thấy một hay hai con thú của bạn bè mình, nhưng không hé cho bất kỳ ai biết đã tìm thấy chúng ở đâu.” Ông hiệu trưởng hất cằm ra và nhìn Charlie chằm chằm. “Trò tìm thấy những con thú nuôi đó ở đâu, Charlie Bone? Những thành viên hội đồng thành phố muốn biết. Trò đã tìm thấy con chó, con vịt, con vẹt, hai con thỏ, và đàn chuột, cùng con trăn vốn là của ông nội ta ở đâu?”
“Con chỉ thấy chúng, thưa ngài… đi loanh quanh,” Charlie nói.
“ĐỨNG LÊN, THẰNG KIA!”
Charlie đứng lên.
“Hãy nhắc lại câu hỏi của ta,” tiến sĩ Bloor hùng hổ. “Trò đã tìm thấy những con thú ở đâu?”
Charlie nghiến răng lại. “Con có thể mang trả lại con trăn, thưa ngài, nếu ngài muốn.”
“Bọn ta không muốn con trăn đó nữa. Giờ nó đã là một vật èo uột rồi, theo những thông tin ta thu thập được,” tiến sĩ Bloor dậm mạnh bàn chân xuống bục. “VÀ ĐỨNG CÓ ĐỔI ĐỀ TÀI!”
“Không ạ, thưa ngài,” Charlie ngoảnh khỏi bộ mặt đỏ gay điên tiết của ông hiệu trưởng. “Có lẽ lũ thú kia chỉ đi lang thang thôi, thưa ngài, như những con mà em đã tìm thấy.”
“Hừ, nếu không phải thế, thì Charlie Bone…” ông hiệu trưởng chồm xuống sát hơn, “… nếu không phải thế, thì luôn có một phòng trên những gác mái có thể làm nơi nhốt một thằng bé cho đến khi nó nói ra sự thật.”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie nói tắc họng.
“GIẢI TÁN!” Ông hiệu trưởng gầm vang.
Ba trăm đứa trẻ nhổm phắt dậy và bắt đầu xếp đĩa dơ thành chồng.
“Em tính sao?” Fidelio hỏi Charlie khi chúng đi ra khỏi sảnh ăn tối.
“Không biết,” Charlie đáp. “Em sẽ phải nghĩ về chuyện này trong khi làm bài tập. Đó là nếu em nghĩ được à nha. Tối nay ở đó em sẽ khốn khổ lắm cho coi.”
Nhưng tình hình không đến nỗi tệ hại như Charlie sợ. Có lẽ Joshua và Dorcas đã thoả chí với cuộc la mắng của ông hiệu trưởng lắm rồi, và chúng cảm thấy hiện tại Charlie đã nhận đủ tất cả những gì nó đáng phải nhận.
Nhìn thì có vẻ Charlie đang siêng năng chí thú với bài lịch sử của mình, nhưng kỳ thực những ý nghĩ của nó cứ trôi tận đâu đâu. Làm sao nó có thể mang tất cả thú về lại đây? Làm sao để ngoại Maisie hết bị đông cứng? Mà nghĩ đến ngoại Maisie, phải nằm cứng trong bồn tắm, nó rùng cả mình. Và thế rồi cái cảm giác chờn chợn rằng mình đã mất mát cái gì đó rất quý giá lại cứ dần dần xâm chiếm nó.
Sau giờ làm bài tập, Charlie lê bước về phòng ngủ chung trong trạng thái mê mụ. Có người giật cùi chỏ nó, và nó nhận ra Gabriel đang đi bên cạnh mình.
“Cảm ơn em đã mang lũ chuột về cho anh, Charlie,” Gabriel lẳng lặng nói. “Anh sẽ không hỏi em đã tìm thấy chúng ở đâu đâu.”
“Dạ.” Charlie cảm thấy khá hơn khi nhìn thấy vẻ mặt tươi tỉnh của Gabriel. “Em đã để chúng ở lại quán Cà Phê Thú Kiểng. Anh có thể đến nhận chúng về vào cuối tuần.”
“Tuyệt. Em nghĩ em sẽ có thể đưa những con khác trở về không?”
Charlie thở dài não nề. “Em làm sao được hả, Gabe? Anh nghĩ coi. Hầu như mọi chim chóc trong thành phố, mọi chuột cống, chuột chù, ếch, nhái, chó, mèo – kể không hết – đều đã chạy mất. Làm sao em có thể đưa tất cả chúng về mà không… mà không…”
“Nói chúng ở đâu,” Gabriel tiếp lời. “Thì ra vấn đề của em là vậy.”
Charlie chẳng bận lòng cái sự cả nửa bọn trai trong phòng ngủ chung không nói chuyện với mình. Trong đầu nó có quá nhiều thứ phải nghĩ rồi. Thật lâu sau khi đèn tắt, nó vẫn thức trơ trơ, và khi chắc chắn tất cả bọn khác đã ngủ say, nó nhón gót đi tới cửa sổ và mở rèm cửa ra, chỉ hé vừa cho một mảng ánh trăng bò vào phòng. Đốm sáng đó đổ thành một dải hẹp đằng sau giường nó.
Charlie chui xuống dưới chăn và chờ đợi. Liệu Naren có tìm thấy nó? Liệu cô bé có gởi thông điệp đến vì nó nóng lòng muốn nói chuyện với cô bé? Đúng lúc nó gần như mất hết hy vọng thì những bóng đen bé xíu bắt đầu liêu xiêu qua bậu cửa sổ và vào phòng. Charlie nhìn chúng bò qua giường mình lên tường. Cuối cùng chúng dừng lại và nó có thể đọc được hàng chữ.
“Anh khoẻ không, Charlie?”
“Anh đang gặp rắc rối,” Charlie thì thào. “Anh phải đưa tất cả thú về, Naren ạ, và phải thật sớm, không thì họ sẽ nhốt anh.”
Những cái bóng nhỏ nhanh nhẹn tự xếp lại và Charlie ngạc nhiên khi đọc.
“Chúng đang trên đường trở về. Ngày mai mọi sinh vật mất tích sẽ trở lại thành phố,”
“Bằng cách nào?” Charlie hỏi.
“Có ba con mèo rực rỡ tới. Những con mèo thần. Anh phải thấy chúng mới được, Charlie. Chúng ngồi ngoài sân nhà em và cất giọng gọi to lên, nghe rất hay, tất cả mọi con thú liền tụ tập quanh chúng và theo chúng đi ra khỏi cổng nhà em. Một cảnh tượng mới hớp hồn chứ! Chim trên trời, những sinh vật chạy, bò, nhảy…”
Một tiếng thét bất chợp xé tan phòng ngủ chung. Charlie thì thào, “Tạm biệt” và những chữ bắt đầu mờ đi.
“Đó là cái gì vậy?” Rupe Small rống lên. “Kinh khủng quá.”
Đến giờ thì cả phòng đã thức giấc.
“Bức tường phủ đầy… đầy, è, cái quỷ quái… thú hay gì gì đó,” Rupe liến láu. “Charlie Bone đang nói chuyện với cái tường.”
“Ụa!”
“Hả?”
“Gớm ghiếc!”
“Tin Charlie Bone đi chứ!” Tuôn ra từ tứ phía của phòng ngủ chung.
“Câm mồm và ngủ đi,” Fidelio quát. “Mày gặp ác mộng đó, Rupe Small.”
“CÒN LÂU!”
Cánh cửa xịch mở và cái bóng cao lêu khêu của bà Lucretia Yewbeam đổ vào phòng. Bà ta bật đèn lên. “Cái gì thế hả?” Bà ta la lối.
Rupe chỉ vào Charlie, “Có cái quỷ gì trên tường ý và thằng đó nói chuyện với nó.”
Mắt bà giám thị híp lại, “Cái quỷ đó là cái gì?”
“Không là gì cả, thưa bà giám thị,” Charlie nói.
“Em cũng thấy nữa,” Bragger Braine lên tiếng. “Nó biến mất khi Charlie thì thầm với nó.”
“Chỉ là lũ ruồi thôi,” Charlie nói. “Cháu không biết chúng từ đâu tới.”
“Láo toét,” bà cô của nó rít rú. “Làm gì có ruồi. Giờ là mùa đông. Chúng chết hết rồi.”
Đến đây, Charlie chẳng tìm được gì mà đối đáp.
Bà giám thị bước tới giường của Charlie và nhìn chầu bẩu vào mặt nó. “Lúc nào cũng là mày sao? Dựng mọi người dậy, phá bĩnh giấc ngủ của người ta. Tao không biết mày đang làm gì và tao cũng không quan tâm. Phạt cấm túc mày, Charlie Bone. Mày phải ở lại trường nửa ngày cuối tuần.
“Nhưng cháu không thể,” Charlie phản kháng. “Bà của cháu bị bệnh.”
“Bà mày còn khỏe re,” bà giám thị nói rồi bước đi khỏi.
“Không phải chị của bà đâu. Không phải nội Bone. Ý cháu nói tới ngoại Maisie, người bà khác của cháu.”
“Xời,” bà giám thị hờ hững. “Thế bà ta làm sao?”
“Bà ấy bị… bị cảm lạnh,” Charlie cà lăm.
“Cảm lạnh? Cảm lạnh thì có chết đâu. Đi ngủ!” Bà giám thị tắt đèn và đóng cửa lại.
Khi Charlie rúc xuống dưới chăn, nó nghe thấy một tiếng làm tim nó đập lộn lên. Một tiếng cú kêu, rồi thêm một tiếng nữa.
“Chúng đang trở lại đấy,” nó nghĩ, và cuối cùng nó trôi vào giấc ngủ.