Đó là tiếng thét của cô Amy, nhưng chính ngoại Maisie mới là người gặp phải tai ương. Khi Charlie lao bắn vào nhà bếp, điều đầu tiên nó thấy là ngoại Maisie đứng cứng đờ ngay chính giữa phòng. Bà quay mặt ra cửa và hình như đang trợn trừng nhìn thẳng vào Charlie. Miệng bà há to và nét mặt còn nguyên si vẻ kinh ngạc. Cô Amy và Ông cậu Paton đứng hai bên bà. Tay cô Amy chắp lại, nhưng tay Ông cậu Paton chìa ra trước mặt, như thể ông chưa biết phải đặt chúng vào đâu.
“Chuyện gì đấy ạ?” Charlie kinh hãi. “Chuyện gì xảy ra thế?”
“Chúng ta không… chắc,” Ông cậu Paton đáp.
“Bà bị đông cứng,” cô Amy khóc thút thít. “Ngoại Maisie bị đông cứng rồi.”
Thậm chí cả nội Bone cũng đã nhỏm dậy khỏi ghế của bà. “Bà ta, cái bà ngớ ngẩn ấy đã làm gì thế? Bà ta đã làm cái điều đáng ra bà ta không nên làm.”
“Lạy trời lại đất, Grizelda”, Ông cậu Paton gầm lên. “Bà Maisie đang gặp rắc rối đây này”.
“Hứ!” Nội Bone quay ngoắt lưng lại. “Tốt hơn là các người làm gì đó đi chớ. Bà ta bắt đầu rỏ nước rồi kìa.”
Charlie chạm vào cánh tay ngoại Maisie. Ngoại đang mặc chiếc áo lạnh lông mèo angora màu hồng, và đống lông mềm ấy đã chuyển thành những chùm nước đá cứng queo, chĩa ra tua tủa. Một ý nghĩ khủng khiếp nảy ra trong đầu nó. Mới khoảnh khắc trước thôi mình đã du hành vào một thế giới ngập tràn tuyết. Lẽ nào, phải chăng bằng cách nào đó, mình đã mang cả ngoại Maisie đi cùng? Nó chạm vào mặt ngoại. Lạnh và cứng hệt như một tảng băng.
“Charlie, đừng”, mẹ nó nức nở. “Đừng chạm vào bà, kinh… kinh khủng quá.”
Nội Bone nói đúng. Thật tình là ngoại Maisie đang bắt đầu rỏ nước. Một vũng nước nhỏ đã đọng quanh bàn chân bà.
“Có lẽ bà ấy đang tan ra”, Ông cậu Paton nói. “Chúng ta hãy thúc đẩy quá trình này đi nào. Chúng ta sẽ đưa bà ấy đến gần bếp lò.”
Với một chút khó khăn, cô Amy và Ông cậu Paton lái ngoại Maisie lại chỗ bếp lò. Ông cậu Paton tăng nhiệt độ lò lên và hơi nóng xổ tràn vào căn phòng. Trong một vài phút, cả nhà nóng ran, đến độ tất cả mọi người vội trút bỏ áo lạnh và áo len chui đầu của mình ra; nhưng mặc dù tiếp tục rỏ nước, chút chút thôi ở quanh giày, ngoại Maisie vẫn còn cứng như tảng băng.
“Bị ếm bùa rồi”, mẹ Charlie thảng thốt vùi mặt vào lòng bàn tay. “Đúng là vậy thôi. Nhưng tại sao lại là ngoại Maisie? Bà có bao giờ làm tổn thương một linh hồn nào đâu.”
“Charlie, mày lại đi gặp ông thầy pháp đó nữa à? Ông cậu Paton hỏi với giọng nghiêm khắc.
“Kh… không”, Charlie nói, hơi ấp úng.
“Nhưng mày lại ‘du hành’ nữa chứ gì?”
Charlie gật đầu. Nó cảm thấy con mắt của nội Bone găm vào mình. “Con không thăm ông thầy pháp nào cả,” nó lẳng lặng nói, “mà đi tới một nơi rất lạnh.”
“Nơi nào?” Nội Bone hạch hỏi.
“Ồ… chỉ là một tấm thiệp Giáng sinh”, Charlie nói. “Để cho vui. Việc đó có gì sai trái đâu, phải không ạ?”
“Mày không nên dùng tài phép của mày chỉ để cho vui”, bà ta nhiếc móc.
“RỒI, RỒI”, Charlie lầm bầm. Nó nhận thấy cái bàn đang bày nguyên bữa trưa. Tất cả đồ ăn trong giỏ đã được dọn ra, và từng món ưa thích của mỗi người đều đã ở ngay ngắn trong đĩa của họ. Pa-tê cho nội Bone, bánh nhân thịt hươu cho ngoại Maisie và cho Charlie, cá ngừ cho cô Amy và tôm he cho Ông cậu Paton. Nắp hũ đựng tôm he đã bị mở banh và hai con tôm he to nằm trên tấm trải bàn, như thể chúng vô tình bị rơi xuống.
“Ông cậu Paton, ông đã ăn tôm he chưa?” Charlie hỏi.
“Chưa, ta…” Ông cậu Paton nhìn đám tôm he. “Ối, lại thánh thần, ai…” ông cúi xuống và nhìn vào cái miệng đang há ra của ngoại Maisie. “Một con tôm he!” Ông la lên. “Bà ấy đã ăn tôm he của tôi.”
“Ông cậu Paton”, cô Amy trách cứ. “Làm ơn đi, ông không chấp nhặt bà mẹ tội nghiệp của tôi vì vài con tôm he đấy chứ”.
“Ối cô à, cô hiểu lầm rồi”, Ông cậu Paton nói. “Bà Maisie đang ăn tôm he thì… thì gặp phải tai họa này.”
Cô Amy ngước nhìn lên, “Ngộ độc à?” Cô thở gấp.
“Còn hơn cả ngộ độc”, Ông cậu Paton nói. Ông quay qua bà chị mình. “Grizelda, bà có biết tí gì về vụ này không?”
“Đừng có lố thế chứ”. Tóm lấy đĩa bánh mf và pate của mình, nội Bone tong tóc đi ra khỏi bếp, càu nhàu. “Tao sẽ không ở đây để mà bị xỉ vả đâu”.
Không ai dám động đến thức ăn của mình nữa. Họ cất tất tật các món vào trong giỏ mây, và Ông cậu Paton gọi điện cho cửa hàng. Mười lăm phút sau, một người đàn ông trẻ tới trong chiếc xe tải nhẹ mà Charlie đã trông thấy vù đi khỏi cách đây một giờ. Ông cậu Paton ra cửa trước trả lại giỏ đồ ăn cho anh ta. “Một thành viên trong gia đình tôi đổ bệnh rất nặng”, ông bảo người đàn ông trẻ. “Chúng tôi tin rằng tôm he của các người phải chịu trách nhiệm. Tôi muốn chúng được mang đi phân tích càng sớm càng tốt.”
“Hôm nay là Chủ nhật, thưa ông”, người đàn ông trẻ nói, trông có vẻ líu quíu.
“Có người sắp chết!” Ông cậu Paton quát to. “Làm ngay đi!”
“Vâng, thưa ngài,” người đàn ông trẻ lí nhí. “Có lẽ bệnh viện sẽ làm.” Anh ta bước lẩy bẩy xuống những bậc cấp và đặt giỏ đồ ăn lên ghế hành khách, xong lái vút đi.
Charlie nảy ra một ý nghĩ. “Những con mèo lửa”, nó đề nghị. “Chúng sẽ giúp cho coi”. Nó quàng lẹ áo gió vào, vù ra đường và hướng thẳng đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Những con mèo lửa không phải lúc nào cũng ở đó, nhưng nó không biết tìm chúng ở nơi nào khác.
Charlie đi gần hết đường Fillbert thì linh cảm thấy những con mèo lửa đang ở rất gần. Ánh mắt Charlie bị hút lên cái mái của căn nhà nó đang đi ngang, và chúng kia kìa, trên chỗ cao nhất, những hình thù sáng chói khắc đậm vào bầu trời xám. Vừa trông thấy Charlie, chúng liền nhảy từng con một xuống cái cây gần đó, và leo rất gọn gàn qua từng chạc cây cho đến khi đứng ngay dưới chân Charlie.
“Những con mèo lửa, tôi cần các bạn giúp!” Charlie quay đầu và chạy về lại nhà số 9, những con mèo lửa chạy cùng với nó; Dương Cưu hơi nhô lên trước một tí, như thường lệ, Sư Tử và Nhân Mã ở hai bên.
Khi cả bốn nhảy phắt vào hành lang, nội Bone ngoác mồm la bai bải, “Không được cho lũ sinh vật kinh tởm đó vào. Đuổi chúng ra!”
Những con mèo lửa hùng dũng đi tới cửa phòng khách để mở và nhìn xoáy vào trong bằng những cặp mắt sáng quắc như thần. Nội Bone vội lùi lại, la eo éo, “Đuổi chúng đi.”
Ba con mèo lửa gườm gườm nhìn bà ta, và nội Bone đẩy cửa đóng sầm lại, sập luôn cái mũi giày đen bóng lộn của mình.
Charlie phì cười. Nó dẫn những con mèo lửa vào bếp, nơi chúng thấy ngay lập tức mình phải làm gì. Chúng chạy ùa tới ngoại Maisie và vây quanh bà, meo meo nhè nhẹ.
“Ôi, Charlie, chúng giúp được không đấy?” Cô Amy nắm chặt bàn tay Charlie.
“Những con mèo này có thể làm phép màu”, Ông cậu Paton nói một cách tự tin.
Những con mèo lửa có vẻ bối rối. Sự bối rối chỉ có thể được diễn tả duy nhất bằng cái nhíu mày sượt qua khuôn mặt lông lá của chúng. Những cặp mắt vàng chóe ra lên khắp chiều dài thân hình bất động của ngoại Maisie, cho tới khi đôi mắt kinh hãi bị đông cứng của bà. Chúng lại meo lần nữa.
Hết trọn một phút, những con mèo lửa săm soi các ngón tay cứng đờ, đôi cẳng phốp pháp, cái áo lạnh hồng đóng băng và những lọn tóc xám cuốn gọn của ngoại Maisie. Chúng dịch tới gần hơn và hít ngửi, những cái mũi đen chun nhúm lại ra điều không bằng lòng.
Charlie nín thở. Những con mèo lửa có thể làm tan chảy ngoại Maisie được không? Nó nhìn Dương cưu đứng nhón hết cỡ trên các đầu ngón chân, lưng vồng lên. Con mèo màu đồng bắt đầu chạy quanh đôi chân đi giày thể thao mới màu đỏ của ngoại Maisie. Hẳn là bà rất tự hào về chúng, Charlie nghĩ. Hy vọng bà vẫn sẽ còn tự hào về chúng.
Sư Tử và Nhân Mã chạy theo Dương Cưu. Nhịp bước nhẹ đều của những con mèo lửa trở nên dồn dập hơn. Chẳng bao lâu sau cơ thể chúng hóa thành những quầng lửa lao chồm tới. Nhìn như ngoại Maisie đứng bên trong một vòng tròn lửa. Những tia lửa nhỏ xíu, lóa nhóa bắn tung lê trần nhà, và Charlie có thể nghe thấy tiếng rít cùng và tiếng lửa nổ lốp đốp.
“Bà chớp mắt kìa!” Giọng cô Amy khản đặc đi vì mừng. “Có thấy không?”
Charlie nhìn vào mặt ngoại Ma. Bà chớp mắt hai lần.
“Con thấy”, Charlie la lớn. “Bà chớp mắt”.
“Đúng vậy thật”, Ông cậu Paton công nhận.
“Bà đang chảy”, cô Amy thở hắt ra mừng rỡ.
“Những con mèo lửa tài giỏi. Hoan hô!” Charlie reo lên.
Ngoại Maisie ngậm miệng lại và có gì đó như là nụ cười nhíu lại ở hai khóe mép.
Họ đợi thêm chút nữa. Không có gì thêm. Cái chớp mắt đã ngừng hẳn; miệng vẫn khép và các bộ phận cơ thể còn lại của ngoại Maisie vẫn cứ thế mà đông cứng.
Những cuộn lửa bắt đầu bớt đi độ sáng. Nhịp bước phừng phực chậm lại, và ba con mèo, hoàn lại hình hài cũ của mình, bước thêm một vòng, hai vòng, ba vòng nữa quanh đôi cẳng cứng đơ của ngoại Maisie, rồi ngồi xuống. Trông chúng mệt đừ.
Dương Cưu nhấc một chân lên và từ tốn liếm. Sư Tử và Nhân Mã nằm xoài ra sát bên nhau và nhìn lên Charlie, như ngụ ý nói Chúng tôi đã cố rồi. Chúng tôi không thể làm hơn được nữa.
“Các bạn đã làm hết sức”, Charlie nói. “Tôi biết mà”.
“Bà ấy sắp trở lại”, mẹ Charlie rên rỉ. “Chỉ cần cố thêm tí xíu nữa thôi.”
“Chúng không thể làm được”, Charlie nói. “Chúng đã làm tất cả rồi. Chúng không thể làm hơn nữa đâu.” Nó đi tới tủ lạnh và lấy ra một ít dăm bông, thái thành cục nhỏ và thả vào một cái nồi. Nó đặt nồi sát vào những con mèo lửa và chúng ăn ngấu nghiến.
Ông cậu Paton ngồi xuống và khoanh tay thật chặt. “Có vẻ việc này muốn nhằm vào ta”, ông chua chát nói. “Ta chắc chắn thế. Đúng ra ta phải là người ăn tôm he. Ai đó đã cố ý làm ô uế tôm, mà chắc chắn là một kẻ trong bọn chúng – hay ta nên nói là một trong chúng ta, những kẻ được ban phép thuật. Tại sao…?” Ông giơ hai bàn tay lên và buông cho chúng rơi thõng xuống đùi.
“Chúng ta phải gọi bác sỹ thôi”, cô Amy thúc giục. “Ngay đi. Trước khi quá trễ.”
Ông cậu Paton gật đầu. “Đành vậy thôi. Nhưng phải là người mà chúng ta tin cậy về độ thận trọng và kín tiếng”.
Một tia hy vọng lóe lên trên mặt cô Amy. “Tôi biết một người. Trông ông ấy có vẻ quen giữ bí mật. Ông ấy hay mua rau quả ở chỗ tôi và bữa nọ đã cho tôi danh thiếp của ông ấy. Ông ấy là bác sĩ… gì gì đó, khác thường”.
“Không chừng là một tiến sỹ toán học hay âm nhạc”, Charlie không muốn mẹ mình quá hy vọng.
“Nhưng cũng đáng thử”, cô Amy chạy ra chỗ để điện thoại trong hành lang.
Trong khi cô Amy gọi điện, nội Bone quát um xùm, “Chúng đi chưa hả, cái lũ thú ấy?”
Những con mèo lửa gừ lên trước giọng bà ta. Sư Tử liếm cái nồi thêm cú nữa rồi phóng theo các anh em mình vô hành lang. Đuôi chúng vểnh cao và đầu nghếch thẳng. Tuy thất bại lần này nhưng chúng vẫn giữ vẹn niềm kiêu hãnh. Charlie thầm cảm ơn chúng, và để chúng đi.
“Ông ấy sẽ tới”, cô Amy đặt ống nghe xuống. “Tên ông ấy là bác sỹ Tanaka”.
Bác sỹ Tanaka còn trẻ, với vẻ mặt cười lởi xởi, diện bộ com-lê xám chỉn chu. Thoạt nhìn tưởng như ông chẳng thuộc loại người có thể đối phó với điều gì chệch khỏi trật tự thông thường. Nhưng cô Amy đã không lầm. Khi nhìn thấy ngoại Maisie tội nghiệp bị đông cứng, bác sỹ Tanaka chỉ nhướn một bên lông mày lên. “À!” Ông nói. “Bị đông lạnh. Hạ thân nhiệt xuống dưới điểm đông, nhưng trong trường hợp này là bất tự nhiên”.
“Bà cụ có… có chết không?” Cô Amy hỏi, gần như không thốt ra được mấy từ cuối cùng.
“Không hẳn,” ông bác sỹ đáp bằng giọng nhẹ ru, hiệu quả. “Khi quyền năng bị phá vỡ, bà ấy sẽ trở lại”.
“Quyền năng”, Charlie lầm bầm.
Bác sỹ Tanaka quay qua nó và mỉm cười. “Quyền năng”, ông lặp lại. “Ai đó trong thành phố này có quyền năng siêu nhiên, cực kỳ khác thường. Tôi biết chắc chắn là có một số người rất khác thường. Những người con của Vua Đỏ, tôi tin họ là như vậy. Thực tình, tôi mạn phép tin rằng mình đang đứng trong ngôi nhà có một… hay hai… người như thế sống, đúng không?”
Ông cậu Paton nghiêng đầu.
“Theo kinh nghiệm của tôi thì không có quyền năng nào trên trái đất này lại không bị phá vỡ”, ông bác sỹ hăng hái tiếp. “Và hai người được ban phép sẽ tốt hơn là chỉ một người”.
Cô Amy liếc nhìn ngoại Maisie, “Trong lúc chờ đợi, chúng ta nên làm gì với mẹ tôi đây?”
“Hãy làm cho bà ấy thoải mái,” ông bác sỹ nói.
Mọi người quyết định bồn tắm là nơi tốt nhất cho ngoại Maisie, do những giọt nước cứ liên tục nhểu thành vũng quanh chân bà. Trước khi đi, bác sỹ Tanaka giúp Ông cậu Paton khiêng thân thể đông đá ấy lên lầu. Họ phải đeo bao tay và việc lái bà vô bồn tắm chẳng dễ dàng gì. Charlie nhẹ nhàng đặt một cái gối đệm dưới đầu ngoại Maisie và cô Amy đắp cho bà một cái chăn.
“Tôi hy vọng mình sẽ hân hạnh được mua nhiều rau nữa tại cửa hàng tuyệt vời của cô,” ông bác sỹ bảo với cô Amy trước khi rời đi.
“Tôi cũng hy vọng vậy”, cô Amy đáp lại cái cúi chào lịch thiệp của ông bác sỹ.
Ông bác sỹ vừa đi khỏi thì một cú điện thoại từ cửa hàng thông báo cho Ông cậu Paton rằng mớ tôm he đó không hề nhiễm độc tố hay bất kỳ thứ gì. Chúng đã được mang cho chuột thí nghiệm ăn và không gây ra tác dụng xấu nào. Thật ra lũ chuột cực kỳ thích chúng, và thậm chí chúng còn hoạt bát hơn và mọc nhiều lông hơn sau khi ăn tôm.
“Chắc chắn là chúng đang đói ngấu”, Charlie lầm bầm.
“Chỉ một con tôm bị thôi”, Ông cậu Paton tuyên bố. “Và ngoại Maisie đã ăn trúng con tôm đó. Ta dám đánh cuộc đó là Venetia”.
“Nhưng bà cô Venetia chỉ đánh thuốc vào quần áo thôi”, Charlie nhắc ông. “Tại sao bà tai phải đổi qua tôm he chớ?”
“Không biết,” Ông cậu Paton làu bàu.
Charlie cảm thấy ngài ngại khi dùng nhà tắm có ngoại Maisie ở trong đấy, cho nên nó lên lầu trên cùng, chỗ mẹ nó và ngoại Maisie ngủ, để dùng toa-lét của họ. Cả Ông cậu Paton cũng vậy.
Đêm đó, nội Bone cứ kêu rêu về trời lạnh chết khiếp ở lầu trên cùng và bà ta cần dùng bồn tắm. “Dời cái bà đông cứng đó đi giùm”, bà ta ra lệnh.
Ông cậu Paton từ chối và nội Bone đành phải dùng toa-lét sát bên buồng chứa đồ. Bà ta bỏ đi, không tắm nữa.
Charlie cảm thấy mắt mình đóng ập lại ngay khi nó lên giường. Nó mơ màng rà soát lại những sự kiện diễn ra trong ngày và bất thình lình nhớ đến Naren. Có đúng là buổi sáng nó đã băng qua cầu đi vào đồng hoang không?
Cô bé đã nói gì với mình nhỉ? “Đêm nay đừng đóng rèm cửa lại”. Vậy thì tài phép của cô bé là gì? Có thể bay, hay có thể gởi thông điệp theo ánh trăng? Mệt rã rời, Charlie lết ra khỏi giường và đến cạnh cửa sổ. Con bướm trắng lướt tới đậu một bên rèm cửa khi Charlie kéo cho rèm mở ra. Bên ngoài một màn sương mù lấp lánh quấn chặt vào những cành dẻ. Sẽ lại là một đêm lạnh buốt nữa.
Charlie lọ mọ trở về giường và ngủ thiếp đi.
Nó tỉnh giấc thì thấy căn phòng sáng ngập ánh trăng. Khi căng mắt ngó quanh, nó thấy có những bóng đen mảnh mai bò loằng ngoằng về phía giường mình. Charlie co rúm người vào gối trong khi những cái bóng bò lên cọc giường rồi bò qua chăn mền. Như những sinh vật tí hon hình thù kỳ dị, chúng bò lên hai bàn tay Charlie và chạy lên ống tay áo nó, nhưng nó không cảm thấy gì cả.
“Cái bóng”, nó nghĩ. “Chỉ là những cái bóng thôi”.
Nó nhìn những hình thù tí teo di chuyển lên bức tường đằng sau mình. Chúng bắt đầu chen lấn nhau, trông như đang cố tìm chỗ thích hợp cho mình trong cái mớ xoáy tít này. Kinh ngạc nhìn những cái bóng chuyển động, Charlie dần dần nhận ra những hình thù kia là những chữ cái. Từ từ, chuyển động loạn xạ của chúng bắt đầu chậm lại, và Charlie có thể nhận ra những từ của một thông điệp:
“Là em đây, Naren. Đây là phép em có thể làm được. Anh có sợ khi thấy những cái bóng nhỏ của em không? Nếu anh thì thầm vào bức tường thì em có thể nghe được anh”.
“Chào, Naren,” Charlie thì thào được chăng hay chớ.
Những chữ cái lại tự sắp xếp lại và Charlie đọc:
“Chào anh Charlie. Em hy vọng anh đã trở về an toàn. Nếu có gì quấy nhiễu anh, hãy cho em biết và em có thể nói với cha em. Mặc dù ông rất ghét đi vào thành phố, nhưng ông sẽ giúp anh.”
Nên bắt đầu từ đâu đây? Charlie tự hỏi. Nó quyết định báo cho Naren biết về việc ngoại Maisie bị đông cứng. Khi nó thì thầm xong mọi chi tiết về sự cố xúi quẩy kinh khủng của bà ngoại thì những cái bóng trên tường đứng im lìm mất một phút, như thể Naren đang cố hiểu thông điệp của nó.
Cuối cùng những chữ cái lại rùng rình chuyển động. Lần này các từ hình thành rất chậm.
“Những gì anh nói về… bà ngoại của anh là… rất tệ… em sẽ nói… chuyện với cha em… Ngày mai… có lẽ… cha sẽ cho lời khuyên”.
“Nhưng ngày mai anh ở trong trường rồi. Làm sao em có…” Charlie nghe thấy tiếng những bước chân trong hành lang ngoài phòng mình. Thình lình cánh cửa mở ra và nó thì thào, hơi to hơn chủ định, “Tạm biệt!”
Nội Bone sấn vào. “Mày đang nói chuyện với ai đó?” Bà chất vấn.
“Không ai cả, nội”, Charlie đáp. “Có lẽ con đã nói mê trong khi ngủ”.
“Nhưng mày đâu có ngủ. Mày đang ngồi trên giường mà. Có cái gì trên tường của mày hả?” Nội Bone dòm lom lom vào bức tường phía trên đầu Charlie.
Charlie ngoái lại, khẩn thiết hy vọng những chữ cái của Naren đã biến mất. May quá, chắc hẳn cô bé đã hiểu lời chào tạm biệt vội vàng của nó, bởi vì những cái bóng tí hon đang bắt đầu mờ đi.
“Chúng là bóng cành dẻ thôi, nội,” Charlie nói nhanh.
“Thằng ngu! Mày để rèm cửa sổ mở. Làm sao mày có thể ngủ được khi trăng tràn vào thế kia?” Nội Bone hằm hằm đi qua phòng và kéo rèm chặt cứng lại. “Hừ, ngủ đi.”
Charlie nằm xuống và nhắm mắt lại. Nhưng khi nội Bone đi khỏi, nó tức tốc mở mắt ra liền. Căn phòng tối đến mức nó không thể trông thấy bức tường. Một giây sau nó lại ngủ lịm đi.
Sáng hôm sau Charlie mệt đến quên phứt vụ ngoại Maisie bị đông cứng, đến khi bước vào nhà tắm nó mới thấy bà nằm đó. Mặt bà trông tái xanh hơn hôm trước, hay là nó tưởng tượng thế? Nó thấy mình không thể nào đánh răng được với tia nhìn trợn trừng băng đá của ngoại Maisie rọi sau lưng, vì vậy nó lẻn lên lầu trên cùng.
Cô Amy vẫn còn ở trong bếp khi Charlie xuống ăn sáng. “Mẹ sẽ không đi làm đâu”, cô bảo với Charlie. “Làm sao mẹ đi được khi ngoại Maisie thế này. Ôi, Charlie, chúng ta phải làm gì đây?”
Có một chậu mùi tây trên bậu cửa sổ làm Charlie sực nhớ ra một điều. “Cỏ roi ngựa”, nó lầm bầm. “Mẹ, mẹ có nhớ khi Ông cậu Paton bị yểm bùa hồi năm ngoái không?”
“Hình như mẹ quên rồi”, cô nói.
“Rồi con đã lấy trộm một ít cỏ roi ngựa từ vườn nhà bà cô Eustacia, rồi chúng ta pha trà, rồi…”
“Ông cậu Paton khỏi bệnh!” Cô Amy kêu to.
“Ừm, mẹ của Fidelio có trồng một ít vào chậu để sau này dùng tới”, Charlie hớn hở nói tiếp. “Nếu mẹ đến Mái Ấm Gia Đình Gunn, con cá là bác Gunn vẫn còn đó. Fidelio bảo thỉnh thoảng bác ấy hay kẹp bánh mì, kiểu như một loại thuốc bổ vậy.”
“Charlie, con là thiên tài!” Mẹ nó ôm chặt nó đến nỗi nó nuốt chửng một cái nguyên cả nửa lát bánh mì.
“Ăn sáng xong mẹ sẽ đi thẳng tới nhà bác Gunn,” cô Amy vui mừng nói. “À mà mẹ đi ngay đây”, cô nhìn ra cửa sổ. “Billy Raven ở ngoài kìa. Con sẽ giữ bí mật tình trạng của ngoại Maisie chứ nhỉ?”
“Dĩ nhiên!”, Charlie lẩm bẩm. Làm như nó muốn người khác biết bà ngoại đang vĩnh viễn chiếm giữ nhà tắm không bằng!
Cô Amy đâm bổ ra hành lang và giật lấy áo khoác. Khi cô đi ra, Charlie nghe thấy giọng nhỏ nhẹ của Billy hỏi nó vô có được không.
“Được, được, Billy, dĩ nhiên là được!” Cô Amy sốt sắng.
Cửa trước đóng đánh rầm và phút sau Billy đã đứng trong nhà bếp, trông bẽn la bẽn lẽn.
“Benjamin chưa cần tới trường, ít nhất là trong nửa tiếng nữa,” Billy nói với vẻ chán ngán. “Vì vậy cô Brown bảo tốt hơn là em nên đến nhà anh để chúng ta có thể cùng đón xe buýt của Học viện Bloor”.
“Cô ấy không thể đưa em đi sao?” Charlie trét mật ong lên miếng bánh mì nướng thứ hai của nó.
Billy nhún vai, “Không nghĩ là hôm nay cô ấy sẽ đi làm”.
“Ờ, tụi mình còn ba phút nữa”. Charlie vui vẻ nói. “Em có muốn ăn chút cốm bắp không? Có dâu trong đó nữa đó.”
“Thôi”, tuy nhiên Billy vẫn tới ngồi vào bàn bếp. Nó mặc chiếc áo khoác vải len tho màu xanh da trời, nhỏ hơn cái khổ người tí tẹo của nó mấy cỡ.
“Em nghỉ cuối tuần có vui không?” Charlie hỏi.
Billy rầu rầu nhìn chằm chặp vào bánh mì nướng của Charlie. “Ờ, à, cũng tạm. Nhưng Rembrandt không vui. Tuần tới em ở chung với anh được không, Charlie?”
“Được”, Charlie nuốt miếng cuối cùng và liếm mấy ngón tay. “Tụi mình đi thôi.”
Billy đứng lên và đi ra cửa. “Cho em dùng toa lét của anh nhé?”
“KHÔNG!” Charlie hét váng lên. “À mà, ừ. Dùng cái kế bên buồng chứa đồ ấy.”
Billy đứng ngẩn ra bên cạnh cánh cửa. “Toa-lét trên lầu nhà anh làm sao vậy?”
“Bị nghẹt”, Charlie nói.
Trong khi chúng cùng nhau chạy trên đường Filbert, Charlie cố moi thêm thông tin từ Billy. Tại sao nó không thích ở cùng với gia đình Brown? Và có chuyện gì xảy ra với Rembrandt?
“Nói chung thì em thích”, Billy thở hì hụi. “Nhưng mẹ và ba của Benjamin hay hỏi han em quá đáng, còn Hạt Đậu và Rembrandt thì cứ cãi nhau hoài, nghe thú vật cãi nhau mệt lắm”.
“Ừ đúng” Charlie thông cảm.
“Hạt Đậu thật là hung hăng”, Billy tiếp. “Rembrandt mệt đến phờ phạc luôn”.
“Em để nó ở lại nhà Brown à?”
“Không, nó đang ở trong túi áo em này.”
Charlie ngừng chạy. “Billy, em không thể giữ chuột trong phòng ngủ chung được.”
Billy chạy đuổi kịp nó. “Em biết, em biết. Em sẽ đưa nó cho bà bếp trưởng khi tụi mình vào căn-tin”.
Charlie nghĩ như thế thì liều quá, nhưng không nói gì thêm.
“Hạt Đậu không phải là một con chó ngoan, anh biết đấy”, Billy cằn nhằn khi chúng bắt đầu chạy tiếp.
“Nó là một con chó khôn tuyệt mà”, Charlie nói. “Em chỉ nhìn nó theo quan điểm của chuột thôi”.
“Em chẳng thấy phải nhìn nó cách nào khác nữa”, Billy phản bác.
Chiếc xe buýt xanh da trời của Học viện vừa tới đầu đường Filbert, và hai thằng bé chạy vắt giò lên cổ về phía đó.
Khi và tới trường, chúng thấy rằng Dorcas Loom đã làm xong điều tệ hại nhất của con nhỏ. Câu chuyện về Charlie và bọn thú đã lan truyền khắp Học viện. Trong mọi phòng để áo khoác đều nghe bàn tán xôn xao về vụ việc. Charlie Bone bị bắt quả tang đang giữ thú cưng của tất cả bạn bè nó, vậy thì những con thú khác ở đâu?
Vào giờ nghỉ giải lao đầu tiên, Charlie vừa bước ra ngoài trời thì một đám đông kéo tới nó. Nó thấy Dorcas và Joshua với hai chị em sinh đôi nhà Branko kè hai bên. Cả kẻ thù cũ của Charlie là Damian Smerk cũng có mặt, rồi thì Bragger Braine và Rupe Small đằng sau thằng này, cùng ít nhất là mười đứa khác – một số đứa học năm thứ tư, thứ năm mà Charlie không biết mặt. Rõ ràng là sức hút của Joshua đã hút chúng lại với nhau. Chứ bình thường chúng đâu thèm mất công dính dáng tới một thằng năm hai hiền lành như Charlie.
Asa Pike xông xáo chen lên trước đám đông. “Này, Charlie Bone, mày định nói gì để biện hộ cho mày đây, hả?” Nó quát tướng lên.
Nhưng Charlie chưa kịp nói gì thì một làn gió mạnh thổi vòng qua mắt cá chân nó, và Asa lảo đảo ngã ra sau vì bị một luồng khí lạnh quất hổng chân.
Sau lưng Charlie, một giọng quen thuộc cất lên, “Nó không có gì phải nói cả. Cút đi!”