Đó là tuần thứ hai của tháng Giêng, một thời điểm mà tuyết rơi chẳng phải là chuyện lạ lùng, thế nhưng thứ tuyết này không phải là tuyết bình thường. Trên ngọn đồi nhìn xuống thành phố có một chú bé đứng giang rộng hai cánh tay, như chuẩn bị bay. Khi gió quất lên thân thể chú, những đụn mây tuyết liền réo cuồn cuộn vào trong hai ống tay áo rộng, luồn bên dưới chiếc áo chùng xanh lá cây của chú. Tancred Torsson có thể triệu hồi mưa, gió, sấm, chớp nhưng đây là lần đầu tiên chú thử tạo ra tuyết. Và tại sao chú lại phải đứng đây, ngay giữa đêm khuya thanh vắng, để triệu hồi tuyết? Bởi vì có ba con mèo đã leo lên tận bậu cửa sổ nhà chú kêu ngao ngao đánh thức chú dậy. Choàng vội chiếc áo chùng ra ngoài bộ đồ ngủ, Tancred bươn bả lao ra ngoài màn đêm.
Những con mèo đón chú ở cửa trước, và trong khi ba mẹ chú vẫn ngủ (cha chú ngáy như sấm rền vang khắp ngôi nhà), chú đi theo ba sinh vật phát sáng rực rỡ băng qua một con hẻm tối hù với một sườn đồi lộng gió, ở đấy chú có thể trông rõ ánh đèn thành phố nhấp nháy bên dưới. Tới nơi rồi, lũ mèo nhìn trừng trừng, trừng trừng vào Tancred đến chừng làm cho chú hiểu được ước muốn của chúng mới thôi.
Tancred không có tài hiểu thú vật, nhưng là một hậu duệ của Vua Đỏ, đôi khi chú vẫn nắm bắt được ý nghĩa của những tiếng ngao ngao khẩn cấp kia. “Tuyết hả?” Chú hỏi. “Đó là thứ bọn mi muốn hả?”
Một tràng grừ lớn từ phía đám mèo, tiếng kêu của chúng hòa trộn vào nhau đầy nhạc điệu.
“Chưa từng làm bao giờ.” Tancred gãi gãi mớ tóc vàng cứng đơ của mình. “Nhưng mà… chà… tôi sẽ thử.”
Bầy mèo rù rừ tỏ ý mãn nguyện.
Trong khi Tancred bắt đầu thực hiện công việc được giao, những con mèo bắt đầu phóng như bay xuống sườn đồi, vào thành phố. Con mèo đầu tiên lông màu đồng như hoàng hôn, con thứ hai màu cam lửa, con thứ ba tựa một vì sao màu vàng. Chúng lao nhẹ ru qua các ngõ hẻm, luồn vô những khu vườn, phóng qua các bờ tường đá và hàng rào, hầu như không để lại dấu chân nào trên những mảng tuyết rơi đầu tiên. Những toà nhà nghễu nghện trong thành phố bắt đầu mất hút vào trong tấm vải liệm của sự thinh lặng màu trắng.
Đây là một giờ không giống bất kỳ giờ nào. Một thời điểm mà sự sống im lìm tựa cái chết. Một giờ chết chóc.
Lũ mèo băng xuống đường Filbert. Chúng lao gần tới đích đến của mình thì một chiếc xe hơi xuất hiện trên đường, chậm rãi di chuyển về phía chúng. Chiếc xe dừng lại bên ngoài nhà số 12 và ba bóng người nhập nhoạng bước ra. Một người đàn ông, một phụ nữ và một cậu bé. Lầm bầm xuýt xoa về tuyết rơi đột ngột, họ lôi túi xách, hòm xiểng từ trong xe ra để lên vỉa hè.
“Chúng ta vừa kịp lúc. Chỉ 10 phút nữa thôi là coi chừng đường ngập tuyết xe đi không được,” người phụ nữ vừa nói vừa leo lên những bậc cấp tới cửa trước nhà mình.
“Đón tiếp mới hay làm sao,” người đàn ông cằn nhằn. “Hay là chúng ta trở lại Hồng Kông đi.” Ông cười gằn một tiếng rồi đóng sầm cửa xe hơi lại.
Thằng bé khệ nệ khiêng hai cái thùng lên bậc cấp, bỗng nhiên nó quay phắt lại, như cảm thấy có cái gì đó đang nhìn mình. Nó ngó qua bên kia đường và trông thấy ba con mèo. “Thì ra là những con mèo lửa,” nó thốt lên, “bên ngoài nhà Charlie. Chẳng hiểu chúng muốn gì?”
“Đừng đứng ì ngoài đó, Benjamin,” mẹ nó gọi. “Vào nhà mau.”
Benjamin mặc kệ. “y, chào, những con mèo lửa!” Cu cậu gọi khẽ. “Là tớ đây này, Benjamin. Tớ đã trở về.”
Từ họng lũ mèo phát ra những tiếng khàn khàn. Tiếng gừ gừ chào đón dường như có pha chút phàn nàn, rằng “Sao mà mãi mới về.”
“Hẹn gặp lại nhe,” Benjamin nói khi mẹ nó kéo giật nó cùng đống hòm xiểng qua cửa.
Lũ mèo dòm cánh cửa đóng lại. Khi đèn bật sáng bên trong nhà số 12, chúng hướng sự chú ý tới ngôi nhà sau lưng chúng. Một cây dẻ trụi lá đứng ngay trước nhà, và chúng lẹ làng leo lên cái cành rộng treo đu đưa bên ngoài một ô cửa sổ tối om. Ngồi nối đuôi nhau thành hàng, lũ mèo bắt đầu hát.
Ở phía bên kia cửa sổ, Charlie Bone chập chờn trong giấc ngủ. Hình như có ai gọi mình? Hay là mơ? Nó mở mắt ra. Một âm thanh nó nhận ra đang bay qua kẽ cửa sổ. “Những con mèo lửa?” Nó lẩm bẩm. Giờ thì đã tỉnh hẳn. Vọt lẹ ra khỏi giường, nó cuốn một cánh màn gió lại và mở cửa sổ ra.
Cảnh tượng ba sinh vật phát sáng, phủ kín trong tuyết, khiến Charlie nín thở. Sau khi đã tự thuyết phục rằng đây không phải là mơ, nó hỏi, “Dương Cưu, Sư Tử và Nhân Mã, phải các bạn không đó?”
Ba con chẳng buồn trả lời. Bằng ba tiếng thịch, thịch, thịch thật nhẹ, chúng đáp xuống tấm thảm, kéo một đám mây tuyết bay theo vào.
Charlie đóng cửa sổ lại. “Các bạn xuống lầu thì hơn,” nó thì thào. “Đêm nay mà chén sữa ấm thì tuyệt. Hay một lát gà tây nhỉ?” Charlie liếc nhìn chiếc giường nằm bên kia căn phòng, nơi một thằng bé đang ngủ, tóc cũng trắng hệt chiếc gối nó đang nằm.
Lũ mèo bước theo Charlie rón rén xuống cầu thang. Vào nhà bếp, nó hâm nóng một xoong sữa rồi rót ra ba cái đĩa con. Tiếng rù rừ sung sướng rền khắp căn phòng khi lũ mèo liếm sữa. Ngay khi sữa chén vừa xong, Charlie thả tiếp vài lát gà tây vào mấy cái đĩa.
Những bông tuyết xoay xoay bay qua cửa sổ không kéo rèm, lấp la lấp lánh trong ánh sáng của ngọn đèn nhà bếp.
“Tuyết gì mà lạ quá,” Charlie nhận xét. “Tôi có phải lắp ráp các việc lại để đoán xem tại sao các bạn tới đây không?” Nó nhìn ba con mèo đang tự liếm mình cật lực. “Tuần rồi tôi mười hai tuổi, thế lúc đó các bạn ở đâu? Các bạn không thích tiệc tùng hả? Tôi đoán thế.”
Sư Tử, con mèo màu cam, ngừng liếm láp để đáp lại cái nhìn chăm chú của Charlie. Đâu phải mèo nào cũng có thể nhìn thẳng vào mắt người ta như thế đâu. Cái nhìn của Sư Tử cháy lên sự tinh tường, nét hoang dã, và cả những ký ức về một cuộc sống mà hầu hết những sinh vật trước-sau-đều-phải-chết chỉ dám mơ tới mà thôi. Sư Tử đã chín trăm tuổi, bằng tuổi với các anh em mình.
Giờ đến lượt Dương Cưu và Nhân Mã góp thêm tia nhìn với Sư Tử. Charlie cảm giác chúng muốn nói với mình điều gì đó. Để hiểu được điều mà lũ mèo đang muốn thông báo, nó vẫn thường phải đánh thức thằng bé trên lầu.
Ba cặp mắt vàng dõi theo Charlie ra khỏi phòng. Charlie cảm giác những cái nhìn ấy gắn vào lưng mình khi nó leo lên cầu thang.
“Billy! Billy, dậy ngay!” Charlie nhẹ nhàng lay vai thằng bé tóc trắng.
“Gì? Cái gì vậy?” Billy mở choàng đôi mắt tròn xoe màu đá rubi.
“Suỵt! Ba con mèo lửa đang ở đây. Anh muốn em ra nói chuyện với chúng.”
Billy ngáp. “Ờ. Được.” Nó lồm cồm ra khỏi giường, vẫn còn chưa tỉnh hẳn.
“Em phải thật im lặng kẻo nội Bone nghe thấy tụi mình,” Charlie cảnh báo.
Billy gật đầu trong khi mò mẫm tìm mắt kiếng.
Billy tám tuổi và thấp hơn Charlie hẳn một cái đầu. Nó có thể giao tiếp được với thú vật, nhưng chỉ khi nào bọn thú cho phép nó làm thế. Lúc nào Billy cũng hơi e sợ những con mèo lửa. Nó mà nói dối là chúng biết ngay.
“Lẹ lên,” Charlie lào thào giục giã.
“Em phải tìm mắt kiếng của em đã,” Billy làu bàu, “không em té thì sao. À. Đây rồi.” Nó đẩy cặp mắt kiếng lên mũi đoạn lúp cúp theo sau Charlie.
Lũ mèo nhìn hai thằng bé đi vào nhà bếp. Ba cặp tai vểnh dựng về phía Billy khi thằng này ngồi xếp bằng xuống trước bếp lò, thu lu và cảnh giác. Charlie đóng cửa lại rồi nằm bò xuống bên cạnh thằng nhỏ.
“Nào, nói đi,” Charlie hối.
Một âm thanh phát ra khỏi cổ họng Billy: một tiếng meo nhẹ, du dương. Các vị có tin gì cho tụi này à?
Dương Cưu đáp bằng một tiếng ngao ngân dài, mỗi lúc mỗi mạnh hơn lên. Hai con kia cũng hòa theo, làm Charlie tự hỏi liệu Billy có hấp thụ nổi dàn đồng ca thông tin vừa meo vừa rít qua ba giọng mèo khác nhau này hay không.
Billy không nói tiếng nào. Ngồi bắt chéo giò, tì cằm trên hai bàn tay chắp lại, nó lắng nghe chăm chú. Charlie ái ngại nhìn cánh cửa bếp. Nó không dám hối thúc bọn mèo nhưng lại lo nội Bone có thể nghe thấy tiếng ngao của chúng.
Billy cau mày khi lũ mèo tiếp tục với giọng bức bối nhịp nhàng. Đến cuối cùng, lúc bài diễn văn kết thúc, mắt Billy mở to vẻ báo nguy. Nó quay qua Charlie, bảo “Đó là một lời cảnh báo.”
“Cảnh báo?” Charlie hỏi dồn. “Cảnh báo cái gì?”
“Dương Cưu bảo hình như có cái gì đó sẽ thức giấc nếu chúng không thể ngăn… ngăn… ừm… người ta tìm ra một thứ. Còn Nhân Mã nói nếu điều đó xảy ra thì anh phải coi chừng, Charlie.”
“Coi chừng! Nhưng anh phải coi chừng cái gì mới được chứ?”
Billy ngần ngừ. “Một phụ nữ… em nghĩ. Mẹ của…” Từ tiếp theo nghẹn lại trong cổ họng thằng bé.
“Mẹ của ai?” Charlie chất vấn.
“Anh… Mẹ của anh.”
“Của anh…” Charlie trố mắt dòm Billy rồi dòm lũ mèo. “Tại sao?” Giọng nó khàn đi vì hoảng hốt. “Có kẻ sẽ làm bà biến mất… như ba của anh ấy hả?”
Billy hỏi lại lũ mèo và Sư Tử trả lời, ra điều xin thứ lỗi.
“Sư Tử bảo phải chi có thể cho anh biết nhiều hơn…” Billy diễn giải. “Nó sẽ giúp anh canh chừng.”
Sư Tử vuột ra vài tiếng meo lớn.
“Nó nói nếu cái bóng đã dời đi, thì anh biết ngay là nó đã được giải thoát.”
“Cái gì được giải thoát?” Charlie nài nỉ, vò mạnh mớ tóc bù xù của mình. “Bộ chúng không thể nói rõ hơn được sao?”
Đúng lúc ấy cửa bật mở và một giọng nói rổn rảng vang lên, “Ai làm ơn tắt bóng đèn đó đi có được không?”
Charlie nhổm dậy nhào tới công tắc, và ngay khi bóng đèn phía trên bàn vụt tắt, một người đàn ông cao lớn bận áo choàng ngủ màu đỏ xuất hiện. Tay ông cầm một cây nến đang cháy cắm trong giá đỡ bằng đồng thau.
“Ta thấy con đang có khách, nhỉ.” Ông cậu Paton của Charlie gật đầu với lũ mèo. “Chào buổi sáng, lũ mèo lửa.”
Bọn mèo luyến láy lời chào đáp lễ trong khi Charlie ngẩn người ra, “Sáng thật rồi à?”
“Mới hai giờ thôi,” Ông cậu Paton nói, ông chẳng ngạc nhiên tí nào khi bắt gặp Charlie và Billy ở dưới lầu vào cái giờ sớm bạch thế này. “Ta đói bụng quá.” Ông băng qua phòng tới mở tủ lạnh. “Ta cảm giác thấy có chuyện huyền bí ở đây. Có gì đang xảy ra vậy?”
“Lũ mèo lửa đến cảnh báo con về mẹ con,” Charlie bảo với Ông cậu.
“Mẹ con?” Từ cửa tủ lạnh, Ông cậu Paton quay phắt đầu lại, chau mày.
“Dạ.”
“Và một cái bóng,” Billy bổ sung thêm.
Ông cậu Paton bưng một dĩa phó mát từ tủ lạnh ra đặt xuống bàn ăn, bên cạnh giá đỡ nến. “Nói rõ thêm ta nghe coi,” ông bảo.
“Billy, bảo mấy con mèo đó giải thích đi,” Charlie kèo nài. “Hỏi chúng coi cái bóng là gì?”
Nhưng lũ mèo nhao nhác muốn cáo từ. Chúng duỗi mình rồi lao ra cửa.
“Khoan!” Charlie gọi. “Các bạn chưa nói cho tôi biết về cái bóng.”
Dương Cưu ngao ngao và Sư Tử cào cánh cửa. Charlie không còn lựa chọn nào khác đành phải mở cửa. Thế là ba con mèo xồ ra và chạy băng băng qua hành lang.
“Cái bóng đó là bóng gì?” Charlie vừa hấp tấp thì thào vừa chạy theo sau lũ mèo.
Nhân Mã ngao một tiếng. Charlie không biết chắc được đó là câu trả lời hay là một mệnh lệnh.
“Để chúng đi đi, Charlie,” Billy chạy ra mở cửa trước. “Chúng còn phải đi đâu đó, gấp lắm. Chúng phải đi xem cái vật đó có bị tìm ra hay không.”
Bất chợt cùng nhau tru lên một tràng, đoàn mèo lửa lướt vù qua cửa, lao ra đường; ba khối sáng bị màn tuyết hùng hổ nuốt chửng.
“Chúng không giải thích,” Charlie lẩm bẩm. “Giờ thì anh sẽ không bao giờ biết được nữa.”
“Chúng có giải thích đấy chứ,” Billy nói. “Chúng…”
Nhưng thằng nỏ chưa kịp nói thêm lời nào thì từ trên đầu cầu thang đã có tiếng quát. “Thế này là thế quái gì, hả?”
Ngay cả những lúc tinh tươm nhất, trông nội Bone vốn cũng đã khó coi, nhưng sau nửa đêm, trông bà còn bệ rạc hơn lúc nào hết. Một bộ khung xương bọc da quấn trong chiếc áo choàng ngủ dài màu xám, nhàu nhì và hai bàn chân to tướng đựng trong đôi giày vải len kẻ ô vuông màu xanh lá cây. Lại thêm cái bím tóc trắng dài, treo đu đưa dưới vai, cùng những chấm kem trắng bóc điểm rải rác khắp gương mặt vàng bủng.
“Chào nội,” Charlie nói, cố hết sức tỏ ra vui vẻ.
“Đừng có xấc láo,” Nội Bone vốn không thích ai hớn hở giữa đêm khuya. “Sao mày không ngủ?”
“Cháu đói bụng.”
“Nhảm nhí.” Bà coi tất tần tật những điều Charlie nói là dối trá. “Tao nghe thấy tiếng mèo.” Bà bắt đầu đáp xuống cầu thang.
“Mèo ngoài đường mà nội,” Charlie nói nhanh.
Bà dừng lại và ngó lăm lăm vào tấm kính hình bán nguyệt phía trên cánh cửa trước. “Cái thứ tuyết gì thế không biết? Trông không bình thường.” Bà nhận xét. Quả là những bông tuyết quay tít kia có cái gì đó kỳ cục thật, nhưng xem ra Charlie không thể nói được đó là cái gì.
“Lạnh, trắng xóa và ẩm ướt,” Ông cậu Paton lầm bầm, bước từ trong nhà bếp ra. “Chị còn muốn gì nữa vậy?”
“Mi!” Nội Bone nạt nộ. “Sao mi không đuổi lũ trẻ lên giường trở lại?”
“Vì chúng đói bụng,” ông em của bà trả lời bằng giọng kẻ cả. “Đi ngủ đi, Grizelda.”
“Đừng có ra lệnh cho ta.”
“Tùy chị.” Ông cậu Paton thong thả quay trở vô nhà bếp.
Mất một lúc nội Bone vẫn đứng y nguyên ở cầu thang, trợn trừng trừng nhìn Charlie.
“Để cháu đi lấy nước uống đã, nội, xong tụi cháu sẽ về lại giường ngay.” Charlie nhìn Billy. “Phải không, Billy?”
“À, phải.” Đối với một thằng bé mồ côi như Billy, cái gia đình lạ lùng hay cự cãi của Charlie luôn có sức cuốn hút bất tận. Nó gật đầu sốt sắng với nội Bone và nói thêm, “Xin hứa.”
Nội Bone phọt ra một tiếng “hừ” đầy nghi ngờ rồi lê bước lên cầu thang.
Charlie lại kéo Billy vào nhà bếp và thì thầm hỏi. “Chúng nói gì vậy, Billy? Mấy con mèo lửa ấy. Cái bóng là bóng gì, hả?”
“Chúng chỉ nói có mỗi một từ,” Billy đáp. “Hình như là hãy lắng nghe. À không, có cái gì đó khác kìa, một từ cổ của từ lắng nghe.”
“Hark(*)?” Ông cậu Paton gợi ý.
“Dạ, đúng rồi.”
(*) Listen: lắng nghe; Hark: là câu mệnh lệnh, có nghĩa là “Hãy nghe đây”. Có thể Billy nghe lộn tên người thành một mệnh lệnh. (ND)
“Nghe cứ như là tên người vậy, con.” Ông cậu Paton cắn ngập răng vào khúc phó mát Cheddar to. “Từ đó còn hơn một mệnh lệnh nhiều. Có lẽ mày nghe nhầm rồi đó con.”
“Con không nhầm,” Billy quả quyết.
Giờ thì ba con mèo đã băng chéo qua thành phố và đang bước nhẹ trên lớp tuyết đóng thành đụn tựa vào các bức tường Học viện Bloor. Chúng vượt qua hai tòa tháp ở hai bên cầu thang lối vào, mải miết đi tiếp, bám theo hông tòa nhà, cho đến cuối lối, nơi bắt đầu một bức tường đá cao vút. Dây leo bám rễ cả vào những viên đá cổ xưa. Những con mèo lửa chạy lướt lên thảm dây leo đó rồi nhảy phóc xuống khoảnh sân ngập tuyết.
Ở đầu sân đằng kia thấp thoáng những bức tường đỏ bầm của một tòa lâu đài hoang. Lũ mèo lửa trở nên thận trọng. Chúng cẩn thận đi qua khoảnh sân trắng xóa, tai vểnh ra đón bất kỳ âm thanh nào có thể vọng đến từ khu đổ nát. Và rồi chúng nghe thấy có tiếng gầm thét.
“Ta thừa biết bọn bay có ý đồ gì rồi,” một giọng phụ nữ rít róng. “Nhưng còn lâu mới ngăn ta lại được, cái lũ ngu. Bọn bay tưởng rằng tuyết sẽ cản trở ta sao? Công nhận là nó có làm chậm bước ta, nhưng không bao giờ chặn được ta đâu.”
Lũ mèo đi tới gần hơn. Qua cổng vòm lớn vào trong lâu đài, chúng có thể thấy một bóng đen đang cúi gập người, cánh tay vùi ngập trong tuyết tới tận cùi chỏ. Bà ta xoay người hết hướng này tới hướng kia, hết giật mạnh lại lôi kéo và rên rỉ cố sức. Bỗng đâu, cùng với một tiếng rên đặc khẹt, một tảng đá lớn phẳng lì bị giật bay thẳng lên không rồi rơi phịch trở lại xuống tuyết.
Người phụ nữ bò hẳn ra quờ quạng dưới đất. Reo lên một tiếng đắc thắng, bà ta nhặt lên vật gì đó và giơ nó ra giữa bức màn không trung trắng toát, mặc kệ bàn tay rách toạc, chảy máu vì cuộc cày cục đào bới vừa rồi.
“Của ta! Nó là của ta!”
Một cú rùng nhẹ trên mặt đất – một chuyển động mà con người không cảm nhận được, nhưng đủ để quẳng nỗi kinh sợ mỏng như sợi chỉ lên mọi sinh vật trong vùng. Chim chóc tỉnh giấc đột ngột, nhao nhác kêu la, bọn gặm nhấm bé tẹo hoảng hốt lao đầu đi tìm chỗ trốn, và tiếng chó tru thê thiết vang động cả không gian rét buốt.
Những con mèo lửa long cặp mắt lên cảnh giác nhìn người phụ nữ lảo đảo ra khỏi khu đổ nát. Gấu áo choàng đen thấm tuyết sũng nặng, cây đèn dầu đang cầm run rẩy trong làn gió băng giá. Bà ta đi tới một cánh cửa trong tòa nhà đồ sộ màu xám, Học viện Bloor, và biến mất vào đó. Vài phút sau xuất hiện ánh đèn chập chờn bên trong một ô cửa sổ trên cao.
Lũ mèo nhìn trân trân lên ô cửa sổ ấy, lo sợ điều xấu nhất sẽ xảy ra.
Người phụ nữ đang đứng trước bức chân dung Vua Đỏ lồng trong khung vàng, tay cầm cây đèn dầu soi tỏ bức tranh dày, nứt nẻ. “Ta có rồi,” bà ta lào khào. Không phải bà ta đang nói với nhà vua. Bàn tay kia, không cầm gì, rút ra một vật từ nếp gấp áo khoác. Thoạt trông nó giống như một thứ bằng kim loại gỉ sét, hình tròn nhưng không tròn hẳn, đường kính gần hai tấc. Bà ta cầm nó bằng cái cán dày hình ô-van.
Nhà vua quắc đôi mắt âu sầu đầy uy lực nhìn ra từ bức chân dung. Một vầng hào quang vàng chói trên mái tóc đen của ngài và chiếc áo chùng đỏ hiện rõ là nhung thật.
Khi người phụ nữ xoay cái vòng kim loại cho nó bắt ánh sáng từ cây đèn dầu, một ánh chớp bất chợt chiếu bừng sáng bức tranh. Đằng sau vai nhà vua, hiện ra một cái bóng. Từ từ, cái bóng định hình, những đường nét càng lúc càng trở nên sắc sảo và rực rỡ hơn.
“Xin hãy tỉnh dậy, hỡi chúa tể của thần,” người phụ nữ giục giã bằng giọng nặng nề, khát khao. “Thần đã tìm thấy Gương Thần của Amoret.”
Lờ phờ, cái bóng động đậy. Nó trượt khỏi đằng sau nhà vua và trôi về phía trước, gần hơn, gần hơn.
Người phụ nữ hộc lên một tiếng sướng ngất. Bà ta thở hổn hển và loạng choạng; cây đèn chao lắc, cái vật tròn sáng lóe lên, ánh sáng trên bức tranh nhảy múa, chớp lóe. Thình lình một tiếng nổ như sấm vang lên hất bức tranh rơi sập xuống sàn nhà, người phụ nữ thét rú lên, bạt vía.
Một cái bóng bay ra khỏi khung tranh và đi về phía bà ta.