“Một giờ đúng.” Chú thở hắt ra một cái và ngáp. “Thôi, vậy đủ rồi.”
Một đám bông tuyết trắng tan chảy trôi xa khỏi ngọn đồi. Dần dần cơn bão dịu hẳn. Vài phút sau, bầu trời đã là một bức màn nhung đen tuyền, trong vắt, với muôn triệu vì sao lấm tấm.
Tancred nghẹo đầu ngó xuống đồi và ghi nhận kết quả công việc của mình: những mái nhà trắng xóa, những đường phố thinh lặng ngập tuyết, và lưới điện giăng trên thành phố trông tựa như một lưới mạng nhện lấp lánh.
“Lần thử đầu tiên thế cũng không tồi,” Tancred phấn khởi nói. Chú lắc ống tay áo, vài bông tuyết còn sót lại bay ra và đậu xuống đôi dép lê của chú. Vài giây sau chúng tan biến.
Tancred ngạc nhiên nhận ra mình đang mang dép lê. Chắc hẳn chú đã nửa tỉnh nửa mê lúc đi theo những con mèo. Thậm chí chú còn không cảm nhận được trời lạnh nữa. Giờ đây, tự dưng, chú rét run cầm cập. Trong khi chạy ngược lên con đường hẹp, thỉnh thoảng chú lại nhảy cẫng lên không và đập hai bàn chân vào nhau đánh “chát”, hài lòng quá chừng. Đó là thói quen chú mới hình thành dạo gần đây và nó thường khiến cho bọn bạn chú cười ngất.
Đến lúc chú về được tới ngôi nhà ba tầng nằm tách biệt của mình, tiếng ngáy như sấm rền của ông bố đã réo gầm như núi lửa sôi. Cả nhà Torsson đều là người điều khiển thời tiết và Tancred nóng lòng muốn được đàm đạo với ba mình về thời tiết quá chừng.
“Mình không biết ba đã bao giờ thử làm thế chưa nhỉ?” Tancred lẩm nhẩm một mình khi bước vào nhà. Chú dậm dậm chân vào tấm thảm chùi chân. “Phải cho Sander và Charlie biết mới được,” chú lẩm bẩm.
“Cho chúng biết cái gì?” Bà Torsson, không sao ngủ được, đang pha trà trong bếp.
“Về tuyết ạ,” Tancred đáp.
“Ớ. Thì ra là con à? Thảo nào mẹ đã thắc mắc không biết con đi đâu.” Bà Torsson vốn đã quen với cách hành xử khác thường của con trai. Nam nhi thì phải làm điều nam nhi cần làm, chồng bà luôn luôn nói với bà như vậy, nhất là khi có việc liên quan tới thời tiết.
“Phùù! Ba mình ngáy om sòm nhỉ,” Tancred giũ chiếc áo chùng ướt nhẹp ra và treo lên đằng sau cánh cửa.
Bà Torsson đãng trí cho tới muỗng đường thứ ba vào tách trà của mình, sau đó rót một tách cho Tancred. Chú kéo ghế ngồi đối diện với mẹ và uống ừng ực. Tạo tuyết quả là một công việc vất vả, hao tổn sức lực. Chú hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ không bị gọi đi làm như thế một lần nữa.
“Những con mèo lửa đã đến đây,” chú giải thích cho mẹ nghe. “Chúng muốn có tuyết – mẹ đừng hỏi con tại sao. Nhưng con cảm thấy có điều gì đó bất ổn đang xảy ra cho thành phố dưới kia.”
“Ba con cũng bảo là ba linh cảm có điềm gở. Ông ấy cứ thắc thỏm ngủ không yên.” Bà Torsson lắc đầu. “Đôi khi mẹ tự hỏi hay là chúng ta dọn nhà khỏi đây đi. Con có thể học một trường bình thường và…”
“Không được,” Tancred phản đối kịch liệt. “Con phải ở nơi này, hệt như Charlie, Sander và Gabriel và… và Emma vậy. Vua Đỏ đã sống ở đây và chúng con là lũ con cháu của ngài. Chúng con phải liên kết với nhau. Mẹ biết điều đó mà, mẹ.”
“Ừ phải, Tancred.” Mẹ chú thở dài.
Bà Torsson không phải là bà mẹ duy nhất ước gì mình và gia đình mình có thể dứt bỏ được thành phố này. Mẹ của Charlie Bone cũng luôn ao ước thoát khỏi cuộc sống u phiền trong căn nhà không thuộc về mình, tại vùng đất luôn vang vọng tiếng thì thầm của quá khứ tang thương, nơi con trai cô bị buộc phải học trong ngôi trường do một người đàn ông ác tâm điều hành.
Nhưng cô Amy Bone không có tiền và không có nơi nào mà đi. Vả lại, ở đây, Charlie hạnh phúc tràn trề. Dường như chẳng có gì hạ gục được nó – một thằng bé lạc quan khác thường. Không gì lay chuyển được niềm tin sắt đá của nó rằng ba nó vẫn còn sống và rằng một ngày nào đó nó sẽ tìm thấy cha mình. Trong khi cô Amy đã từ bỏ niềm hy vọng đó từ lâu.
Lúc ấy là tám giờ sáng thứ Bảy. Ngoài mẹ Charlie ra, tất cả mọi người sống trong nhà số 9 đường Filbert vẫn còn đang ngủ. Kể cả mẹ của cô Amy, bà Maisie, cũng đang ngáy nhè nhẹ khi cô Amy nhón gót đi qua phòng bà.
Sau bữa điểm tâm vội vàng, cô Amy rời nhà, bắt đầu quãng đường đi bộ mười phút tới làm việc cho cửa hàng bán rau quả. Không một dấu tích nào của trận mưa tuyết đêm qua còn đọng lại. Không khí lạnh giá và vỉa hè vẫn ướt át, nhưng hẳn là không ai có thể đóan được, chỉ vài giờ trước thôi, một lớp tuyết dày cả tấc đã bao phủ toàn thành phố.
“Cô Bone! Cô Bone ơi!”
Cô Amy quay phắt lại. Tiếng gọi là từ thằng bé ở phía bên kia đường. Đó có phải là…? Lẽ nào lại đúng vậy?
“Benjamin!” Cô Amy reo lên, chạy ngược trở lại về phía nhà số 9. “Cháu đấy à!”
Thằng bé ngó qua trái qua phải, rồi băng vù qua đường.
“Ôi, Benjamin, cô mừng quá, gặp lại cháu cô mừng quá.” Cô Amy ôm chầm lấy nó, chặt cứng. Trước đây cô không bao giờ vồ vập như vậy cả, khiến Benjamin đâm hơi sựng sựng.
“Cô khỏe…, è, khỏe chứ ạ, thưa cô Bone?” Nó hỏi, sự lúng túng và cơn ngạt thở khiến nó cà lăm. “Ý cháu là tất cả nhà đều khỏe phải không ạ?”
“Charlie khỏe,” cô Amy nói. “Nó vẫn đang ngủ, nhưng để cô mở cửa cháu vào cho nó ngạc nhiên nhé.” Cô chạy lên hết bậc cấp, vặn khóa cửa nhà số 9 và mở ra. “Cháu biết phòng nó đâu rồi đấy. Giờ cô phải đi gấp đây kẻo lại trễ làm mất. Cứ vào đi, vào đi.” Cô khẽ đẩy Benjamin vào nhà rồi đóng cửa lại đằng sau lưng thằng bé.
Benjamin ngó quanh quất hành lang vắng teo, hài lòng khi thấy chẳng có gì thay đổi. Nó là một thằng bé tóc hoe vàng, nhỏ con, trông lúc nào cũng có vẻ thiểu não. Vào lúc đó nó vẫn còn hơi say máy bay, nhưng nó không thể chờ nổi để gặp Charlie và Hạt Đậu, con chó mà nó đã để lại nhờ Charlie chăm sóc.
Benjamin ghé nhìn vào nhà bếp. Không có ổ chó. Không có tô chó. Dĩ nhiên, Hạt Đậu chắc chắn đang ngủ trong phòng Charlie.
Khi leo lên cầu thang, Benjamin nghe có tiếng bước chân phía trên mình, và bà ngoại của Charlie, người bà hiền hậu, xuất hiện ở chiếu nghỉ. Bà mặc chiếc áo ngủ màu hồng rực rỡ.
“Benjamin Brown! Thấy con bà mừng quá!”
Benjamin lại phải chịu một cú ôm nghẹt thở khác. Bà Maisie Jones dáng người tròn trĩnh, tóc quăn, đôi mắt nhăn nheo và cú siết của bà đe dọa sẽ tống Benjamin lăn nhào xuống cầu thang.
“Cái thằng bé bình thường dễ thương này,” ngoại Maisie chép miệng. “Không bị ban phép thuật. Không diễn kịch kọt, không kéo đàn hay thổi sáo, không gù gừ với thú vật. Cháu sẽ có một ảnh hưởng tốt đẹp lên thằng Charlie đấy. Đi lên đi!”
“Cảm ơn,” Benjamin nói, một lần nữa lại bị xiết hụt hơi.
Ngoại Maisie liêu xiêu đi xuống cầu thang, miệng vẫn nói không nghỉ. “Để bà nướng bánh mì rồi pha một bình trà thật ngon. Cốm bắp nhé? Bà nghĩ hay là cho tụi bay ăn nui. Ở Hồng Kông, bữa sáng người ta ăn nui thì phải?”
“Bà ơi, con chó của cháu đâu rồi?” Benjamin hỏi to.
Nhưng ngoại Maisie đã biến mất vào nhà bếp.
Benjamin bước tới phòng ngủ của Charlie. Nó nghe ngóng ở ngoài cửa. Nhưng không có tiếng gì vọng ra từ phía bên kia. Benjamin mở cửa. Nó thấy Charlie đang ngủ say sưa trên giường. Có một chiếc giường mới kê ở đằng kia căn phòng và Benjamin chỉ có thể thấy vài nhúm tóc trắng thòi ra khỏi tấm chăn lông vịt. Billy Raven. Không có tăm hơi của Hạt Đậu.
Benjamin đứng ngay bên trong cửa, phân vân không biết làm gì bây giờ. Gương mặt tai tái nghiêm nghị của nó lộ rõ vẻ lo lắng tột độ. Chuyện gì đã xảy ra với Charlie trong khi nó đi xa vậy? Nó hình dung thằng bạn thân nhất của mình bị vây quanh bởi đám trẻ lập dị của Học viện Bloor. Nhạc công, diễn viên và họa sĩ; kẻ tạo thời tiết, nhà thôi miên và đủ những đứa quái đản khác. Có lẽ điều này giải thích tại sao cô Amy và bà Maisie Jones lại mừng rỡ khi gặp nó đến thế. Bởi vì nó là người bình thường, không như Charlie tội nghiệp.
Bỗng, một chuyển động đột ngột trên giường Charlie đập vào mắt Benjamin. Một con bướm trắng bay chập chờn bên trên tấm chăn lông vịt. Benjamin vốn vẫn được dạy đi dạy lại rằng bướm đêm là loài phá hại. Chúng đục khoét đồ đạc. Nó liền phóng tới trước và úp chụp bàn tay lên con bướm.
Ba việc cùng xảy ra một lúc. Charlie ngồi bật thẳng dậy và hét lên. Billy Raven lăn tòm khỏi giường, còn con bướm trắng cắn, đúng vậy, cắn Benjamin, thằng nhỏ rú lên và buông nó ra.
“Benjamin!” Charlie thét vang.
“Charlie!” Benjamin cũng thét lại. “Một con bướm trắng cắn tớ.”
“Nó là đũa phép của mình đó,” Charlie bảo.
“Đũa phép của bồ?”
“Thằng Manfred đã đốt cháy nó thế là nó biến thành con bướm trắng. Bồ chưa giết nó đấy chứ?”
Benjamin lắc đầu. “Nó đậu trên nóc tủ áo của bồ kìa. Xin lỗi.”
Benjamin không bao giờ hỏi những câu đại loại như: Làm sao mà đũa phép lại biến thành bướm trắng? Charlie nhận thấy mình nhớ thằng bạn này biết chừng nào.
“Gặp lại bồ mừng ơi là mừng, Ben à.”
“Mình cũng mừng ơi là mừng. Hạt Đậu đâu?”
“À.” Charlie vung cặp giò ra khỏi giường. “Nó không có ở đây.”
“Mình thấy thế rồi.”
Billy Raven rên rỉ ngồi dậy. Nó với tay lên chiếc bàn ngủ cạnh giường và sờ soạng tìm mắt kiếng.
“Billy làm gì ở đây vậy?” Benjamin hỏi.
“Bây giờ tiến sĩ Bloor cho phép em ra ngoài vào mỗi cuối tuần.” Billy tìm thấy mắt kiếng và đeo vào.
“Thế con chó của mình đâu?” Benjamin nhất quyết hỏi, quay qua Charlie.
Charlie giật mớ tóc bù xù của mình. Nó có quá nhiều chuyện muốn kể cho Benjamin nghe mà không biết phải bắt đầu từ đâu. Nó ấn bạn ngồi xuống giường, và trong khi mặc đồ, nó giải thích việc nội Bone rắp tâm gọi đội kiểm soát thú nuôi tới bắt Hạt Đậu như thế nào. Vẻ kinh hãi nháng lên trên mặt Benjamin thúc giục Charlie phải vội nói thêm, “Nhưng ông Onimous đã tới đây trước. Ông ấy đã đưa Hạt Đậu về quán Cà Phê Thú Kiểng rồi, và mình tới đó mỗi tuần để đưa Hạt Đậu đi dạo.”
“Có mỗi một lần một tuần thôi á?” Benjamin nói như buộc tội. “Nó cần đi dạo mỗi ngày kìa.”
“Ờm, mình không thể ra khỏi trường, đúng chưa?” Charlie hạ thấp giọng. “Việc mình phải ngủ ở Bloor không phải là lỗi của mình mà.”
“Ừ, không. Xin lỗi. Rất mừng gặp lại bồ.”
“Mình cũng mừng gặp bồ,” Charlie lặp lại lần nữa.
Ngay khi Billy và Charlie thay đồ xong, ba thằng bé đi xuống lầu, ở đó ngoại Maisie dọn cho chúng một bữa sáng đầy ắp. Benjamin sầu não dòm trân trân vào đồ ăn. Nó không thể nuốt nổi. Bụng nó lộn nhào với nỗi lo âu. Nó phải gặp con chó của nó ngay. Nhỡ may ai bắt mất con chó rồi thì sao.
“Ông Onimous không bao giờ để cho điều đó xảy ra đâu,” ngoại Maisie vỗ vỗ đầu Benjamin. “Hạt Đậu ổn mà. Rồi cháu sẽ thấy.”
Billy và Charlie ăn ngấu nghiến phần điểm tâm của mình rồi đi theo Benjamin, thằng này đã ra tới cửa trước rồi.
“Quái sao tuyết đâu hết rồi nhỉ?” Benjamin nói khi bọn chúng chạy trên đường Filbert. “Đêm qua tuyết dày đến nỗi nhà mình tưởng không thể lái xe được.”
“Bảo đảm những con mèo lửa có dính líu tới vụ này,” Charlie lẩm bẩm.
“Ý bồ đó không phải là tuyết thật?”
“Mình cũng không biết mình có ý gì nữa,” Charlie bảo.
Chúng đi tới quán Cà Phê Thú Kiểng thì thấy treo tấm biển “Đóng cửa”. Charlie dí mặt vào cửa sổ. Ghế chất hết cả lên bàn, còn quầy hàng thì trống không. Nhưng ở sau quán cà phê nó thấy có ánh đèn dịu lọt qua tấm màn gió ngăn nhà bếp.
Charlie gõ cửa.
Trong thoáng chốc nó nghĩ là không ai nghe thấy. Định gõ tiếp thì thân hình nhỏ thó của ông Onimous hiện ra đằng sau quầy. Ba thằng bé vẫy tay gọi và ông Onimous lật đật đánh vòng qua những chiếc bàn, ra mở cửa.
“Chao, ai như Marco Polo nhỉ,” ông Onimous nói, ra dấu cho bọn nhỏ vào quán cà phê.
“Marco là ai?” Benjamin hỏi.
“Một nhà lữ hành thời xưa, Benjy à.” Ông Onimous khóa cửa lại. “Khi hầu như chưa ai biết đến sự tồn tại của một nước Trung Hoa thì ông ấy đã tới nơi đó.”
“Cháu đã ở Hồng Kông,” Benjamin nói rành rọt, “và cháu không phải là người xưa. Xin ông làm ơn, con chó của cháu đâu?”
“Hà,” ông Onimous đưa một tay lên gãi gãi cái cằm ngắn bè của mình. “Tốt hơn các cháu vào bếp đi đã.”
Ông Onimous nhún vai với vẻ ngượng ngùng và lúng búng. “Con chó đi rồi, Charlie. Có trời biết nó đi đâu.”
“Đi rồi?” Charlie và Billy chạy nhắng theo Benjamin.
Khi vào đến bếp nhà Onimous, bọn con trai trông thấy Emma Tolly, đang ngồi trong chiếc ghế bành duy nhất. Mí mắt con nhỏ đỏ bụp và có những vệt ướt tèm lem trên má.
“Emma, bồ ỔN chứ?” Charlie nói và lập tức thấy mình ngớ ngẩn bởi vì, rõ ràng, Emma đâu có ỔN.
Bằng giọng bi thiết, Emma nói, “Mình bị mất con vịt rồi.” Con nhỏ nấc hự lên một tiếng.
“Cái gì!” Charlie thốt lên.
“Nào, nào, nào. Tất cả bình tĩnh đã nào,” bà Onimous vỗ về, suýt nữa thì bị phỏng vì bà đang rót ấm nước sôi vào cái bình trà bự tổ.” Ngồi xuống đi, các chú bé, và lấy bánh ăn đi.”
“Cháu không nghĩ mình còn bụng dạ nào mà ăn được.” Benjamin kéo ghế ra và rơi phịch xuống đó. “Cháu chỉ muốn con chó của cháu thôi. Cháu đã ngóng chờ gặp nó cả bảy tháng rồi.”
“È, cháu sẽ cần phải đợi thêm tí nữa,” bà Onimous nói với vẻ hơi gắt gỏng. “Thật tình là có một cuộc đại di cư. Tất cả muông thú đã kéo nhau đi hết và…”
“Cả Rembrandt nữa à?” Billy ré lên thất thanh.
“Tất cả nghĩa là tất cả chứ sao, Billy, kể cả chuột luôn,” ông Onimous nói. “Nhưng ta chắc chắn là phải có lý do đàng hoàng. Chúng ta phải thật bình tĩnh mới suy nghĩ được. Rót trà đi, Onoria thân yêu. Trà ngấm rồi kìa.”
Emma ra bàn ngồi chung với bọn con trai, trong khi ông và bà Onimous mỗi người ngồi xuống một đầu bàn. Trà với bánh nướng được chuyền quanh, nhưng Charlie là đứa duy nhất xơi bánh. Nỗi lo lắng cho lũ thú cũng không thể cướp đi được sự thèm ăn của nó. Mà, làm sao chúng có thể biến sạch bách được cơ chứ. Nó ngó quanh căn bếp ấm cúng hầu tìm kiếm dấu hiệu của sự sống: một con chuột, một con nhện, hay một con ruồi vớ vẩn nào đó. Nhưng chẳng có con gì động đậy trên đống xoong chảo bằng đồng phía trên đầu nó, hay trên những hàng kệ lủ khủ hũ, đồ hộp và bát đĩa sành vẽ sặc sỡ. Cuối cùng ánh mắt nó rớt xuống một cái rổ có nắp đậy ở trong góc phòng, nó bèn hỏi:
“Thế còn con trăn xanh da trời thì sao?”
“Đi luôn rồi, ôi con vật dễ thương,” bà Onimous rầu rĩ đáp. “Chắc chắn chúng đã ra đi vào đêm qua, trong lúc bão tuyết. Ta xuống lầu sớm để làm một ly trà thì thấy nơi này vắng như sa mạc. Không một tiếng sủa mừng, không một tiếng chân chạy lăng quăng, không một cú trườn sung sướng.” Bà hỉ cái mũi rất dài của mình một tiếng to như kèn trumpet.
“Cháu cũng gặp chuyện y như vậy.” Đôi mắt xanh da trời của Emma lại ậng nước. “Nancy lúc nào, lúc nào, lúc nào cũng ở trong chuồng vịt ngoài sân. Nhưng cái chuồng trống trơn rồi.”
Billy ho nhẹ một cái. “Những con mèo lửa đã đến cảnh báo tụi cháu, nhưng chúng không nói gì về việc muông thú biến mất cả.”
“Thế chúng nói chính xác những gì, cưng?” Bà Onimous tha thiết nhoài thân hình gầy nhom của bà về phía Billy.
“Chúng bảo Charlie phải coi chừng mẹ anh ấy và một cái bóng sẽ thức dậy. Một cái bóng tên là Hark.”
“Hark?” Ông Onimous nhướn đôi lông mày cứng đơ của mình lên rồi lại hạ chúng xuống. Hai bàn tay lông lá đưa lên cào một bên má râu ria xồm xoàm, “Ta mù tịt.”
“Cái gì vậy?” Bà Onimous thình lình ngồi thẳng đơ lên, nghển cái cổ dài về tuốt đầu đằng kia nhà bếp.
“Tiếng cào,” Billy trả lời.
Giờ thì tất cả mọi người đều đã nghe thấy: một tiếng cào rất, rất, rất xa.
Billy bật dậy và chạy ù tới cánh cửa dẫn vô buồng chứa thực phẩm.
“Billy, không…” ông Onimous giật phắt một cây đuốc từ trên kệ xuống và chạy loi choi theo Billy, gọi rối rít. “Quay lại, Billy. Mi có nghe không?”
“Rembrandt đó,” giọng nhẹ hều của Billy.
Charlie phóng theo ông Onimous qua một căn phòng dài đựng kín những kệ thức ăn cho chó, rồi ào vào một hành lang tối mù, nền đất và tường đá trơ trụi. Trần nhà chỉ cách đầu Charlie độ chục phân và tối đến độ nó hầu như không trông thấy ông Onimous chạy lút cút đằng trước.
Quán Cà Phê Thú Kiểng được xây hẳn vào một bức tường cổ của thành phố, và lúc này họ đang chạy dọc theo một lối đi dưới lòng đất dẫn đến chính tâm lâu đài của Vua Đỏ. Đến lúc Charlie đuổi kịp ông Onimous thì Billy đã tiến tới một cánh cửa nhỏ ở cuối hành lang. Trước khi ông Onimous kịp ngăn nó lại, Billy đã giật mạnh cánh cửa ra và bươn vào không gian phía bên kia. Giờ thì thằng bé đã ở trong một hang động với những bức tường cong cong chất đầy những sọt gỗ to xụ và bao tải căng phồn.
Ông Onimous bước vô hang cùng với Charlie bén gót theo sau. Trong luồng sáng tỏa ra từ cây đuốc của ông Onimous, Charlie có thể thấy Billy đang cầm một con chuột lớn màu đen.
“Ôi, Rembrandt(*), nãy giờ mày ở đâu vậy?” Billy nói rồi tiếp tục một tràng chút chít the thé với ậm ừ lí nhí lạ lùng.
(*) Con chuột được thầy Samuel đặt theo tên của họa sĩ Rembrandt, một “phù thủy” về tranh sơn dầu và tranh khắc axit thế kỷ thứ 17. (ND)
Con chuột đáp lít chít bằng tiếng của loài chuột và Billy dịch lại, “Nó vừa mới trải qua một cuộc phiêu lưu. Nó đi qua… hả…” Nó thốt lên vậy khi quay qua thấy ông Onimous đang đóng cánh cửa nhỏ xíu xiu. Tuy nhiên, đen xì và sứt sẹo với thời gian, cánh cửa chả thể nào vừa khít hoàn toàn với lỗ hở trên tường.
“Ối! Cái đó dẫn đi đâu vậy?” Billy hỏi, nhìn trân trối vào cánh cửa.
“Chỉ là một cái lỗ thôi mà,” Charlie đáp lẹ.
Ông Onimous cúi xuống tìm nhặt chiếc chìa khóa đồng tí hon dưới sàn lên. “Bọn thú này,” ông làu bàu, tra chìa khóa vào lỗ khóa nhỏ tị trên cánh cửa cổ xưa. “Cái bọn chỉ khôn nửa vời. Ta nghi mi chính là kẻ đã mở cánh cửa đó, chuột Rembrandt à.” Ông thảy cái chìa khóa vào túi mình.
“Dạ, đúng là nó đấy,” Billy nói. “Nhưng cánh cửa đó dẫn đi đâu thế?”
“Billy, ta muốn cháu phải hứa với ta một điều,” vẻ mặt râu ria vui nhộn của ông Onimous đã trở nên gần như nghiêm nghị. “Ta muốn cháu hứa là không bao giờ, không bao giờ được hé cho một linh hồn nào biết về căn phòng này hay cánh cửa đó.”
“Ồ.” Trong một thoáng Billy im thít dòm trừng trừng cánh cửa, và rồi, vẻ hiểu chuyện giãn ra trên gương mặt hớn hở của nó. “Đấy là một lối đi bí mật?” Nó thì thầm. “Tới lâu đài phải không?”
“Ta đang chờ lời hứa của cháu, Billy à,” ông Onimous nghiêm giọng.
“Cháu hứa không bao giờ, không bao giờ hé cho một linh hồn nào biết về căn phòng này hay cánh cửa đó.”
Cuối cùng ông Onimous mới mỉm cười. “Cháu không cần phải biết nhiều hơn nữa. Quên nó đi. Hiểu chưa?”
“Dạ hiểu,” lời đáp ỉu xìu buột ra. Mặc dầu vậy, làm sao mà Billy có thể quên được một nơi lý thú như thế này cơ chứ?
Con chuột lại bắt đầu lít chít và tất cả họ rồng rắn quay trở lại nhà bếp để xem xem con chuột phải nói gì.
“Có tin gì về Hạt Đậu không?” Benjamin nhấp nhỏm. “Ủa, đó là con chuột nào thế.”
“Tên nó là Rembrandt,” Charlie trả lời. “Thể nào nó cũng sẽ có chuyện để kể cho chúng ta nghe.”
Rembrandt được đặt lên chính giữa bàn, và khi tất cả mọi người đều yên vị nơi chỗ ngồi của mình, Billy ngân nhẹ một tiếng giục giã con chuột. Rembrandt ngó quanh những vẻ mặt đang chờ đợi. Chú chàng là một con chuột hòa đồng và rõ ràng rất khoái được là trung tâm của sự chú ý. Với những tiếng chít chít nho nhỏ rồi ngưng, rồi lại gù gừ, líu ríu, nó bắt đầu câu chuyện của mình. Dần dần, những âm thanh nó phát ra theo một kiểu mà Charlie cũng mang máng hiểu được đó chính là lời nói.
Billy ngồi tì cằm vào hai cánh tay khoanh lại của nó, nhìn Rembrandt chằm chằm và chăm chú lắng nghe từng “lời” của con chuột. Khi rõ mười mươi là con chuột đã chít ra tiếng cuối cùng, Billy liền nhấc con chuột, đặt lên đùi mình. Con vật mệt đừ cuộn tròn mình lại và lăn ra ngủ.
“Thế nào, Billy,” Benjamin nôn nóng. “Nó nói gì vậy?”
“Có vài điều rất khó giải thích,” Billy bảo.
“Thì cứ nói đi,” Charlie thúc ép.
“Hừm… nó nói đêm qua có cái gì đó… hình như là… thức dậy. Và… và trái đất rùng mình.
“Chúng ta đâu có nhận thấy gì nhỉ?” Bà Onimous nhìn chồng.
“Chúng ta không phải là loài vật, cưng ơi,” ông đáp. “Làm sao mà nhận ra được?”
“Làm ơn để nó nói tiếp đi!” Benjamin rền rĩ.
Ngoảy mái tóc bóng mướt mượt của mình một cái, bà Onimous chĩa cái mũi rất dài về phía Benjamin. “Ta xin lỗi đã cắt ngang, xin lỗi,” bà nói hơi sẵng.
Benjamin hối hận cúi mặt xuống, nhưng rồi lại lẳng lặng than van, “Cháu chỉ muốn biết về con chó của cháu thôi mà.”
Billy hít một hơi và tiếp, “Ờm, Rembrandt nói rằng chúng, tức là nó, con trăn và Hạt Đậu, đã hoảng sợ thất kinh, và bản năng thúc bách chúng muốn đi tới… một nơi nào đó. Vì vậy Rembrandt đã lấy chìa khóa,” Billy ngừng lại. “Cháu nghĩ là nó nói rằng chìa khóa ở trong phòng ngủ của ông, ông Onimous ạ.”
“Đồ tiểu quỷ,” ông Onimous làu bàu.
“Và rồi nó mở một cánh cửa ra,” Billy mau mau kể tiếp, “thế là tất cả bọn chúng đi vào một đường hầm và… chúng đi xuyên qua lâu đài đổ nát thì thấy tất cả chuột với sóc với chim chóc, cùng tất cả mọi sinh vật khác sống ở đó đều đi hết luôn, và… và cái này nghe hơi khó, cháu nghĩ chúng đi xuống một rìa đá – nơi có con sông gầm rú – và đi qua một cây cầu.” Billy tháo mắt kiếng bị đọng hơi nước xuống. Nó chùi cặp kiếng vào ống tay áo rồi đeo lên trở lại. “Hãy tưởng tượng cảnh tất cả muông thú rầm rập đi qua một cây cầu.”
“Có lẽ vài con thì bơi,” Charlie gợi ý.
“Và có loài thì bay,” Emma thêm.
“Đúng vậy, chim bay.” Billy liếc lẹ qua bộ mặt quàu quạu của Benjamin và hấp tấp kể tiếp, “Sau đó một chút thì chúng tìm thấy nơi an toàn. Đó là nơi hiện giờ chúng đang ở: Hạt Đậu, con trăn xanh da trời, cả con vịt của chị nữa, em nghĩ vậy, Emma.”
“Ở đâu?” Benjamin xòe rộng hai bàn tay ra.
“Em mà biết á?” Billy đáp. Ý em là, Rembrandt không nói cho em biết bất cứ địa danh nào cả. Nó trở lại đây bởi vì nó muốn báo cho em biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng nó nghĩ những loài vật khác vẫn còn ở lại đó.”
Benjamin im đờ ra, khổ sở. Thật ra thì tất cả mọi người đều im lặng, cho đến khi Emma nói, “Tại sao chứ? Tại sao chúng lại muốn ở lại nơi đó chứ?”
Billy vuốt ve bộ lông bóng loáng của con chuột. “Em nghĩ Rembrandt đã cố giải thích rằng nơi đó, giống như là… nơi lánh nạn vậy.”
“Nơi lánh nạn? Ta chưa từng nghe nói về một nơi như thế trong thành phố bao giờ,” bà Onimous bảo.
“Nhưng nó không ở trong thành phố. Mà ở ngoài xa, tít bên kia dòng sông.” Billy ngó sượt qua đầu mọi người tới một thiên đường tưởng tượng, trôi bềnh bồng đâu đó trong không gian.
“Billy, bạn nhỏ à, chẳng có gì ở bên kia sông hết,” ông Onimous nói. “Chỉ có đồng hoang thôi.”
Một tiếng thét tuyệt vọng vang lên, Benjamin gục mặt vào hai bàn tay.”