Nàng chắc chắn như thế.
Tất cả, ngoại trừ nàng ….
Nàng không biết sự va đụng đã xảy ra bao lâu hay là nàng đã giữ yên trong vị thế cúi người xuống với đầu vùi trong vạt áo. Có thể là đã mấy giây, mấy phút, mấy năm ánh sáng.
Dường như đống mớ kim loại bị xé vụn ra chỉ khi kịp rên một tiếng trước khi nằm xuống mãi mãi. Những thân cây bị chặt hết cành – nạn nhân vô tội của vụ rớt máy bay – đã ngừng rung. Giờ đây gần như không có một ngọn lá nào lay động. Mọi vật yên tĩnh một cách đáng sợ. Không có một chút âm thanh nào.
Một cách ngớ ngẩn nàng nghĩ tới một thân cây đang đổ xuống trong rừng. Phải chăng nó sẽ gây ra một âm thanh? Đúng là có. Nàng đã nghe khá rõ. Như vậy nhất định nàng vẫn còn sống.
Nàng ngẩng đầu lên. Trên mái tóc, vai và lưng nàng đầy những mảnh nhựa vỡ vụn – trước đó chính là cửa sổ bên cạnh ghế của nàng. Nàng khẽ lắc đầu và những mảnh vụn đó rơi xuống như mưa, tạo nên những tiếng ngân nhỏ. Nàng cố sức mở mắt ra một cách từ từ.
Một tiếng hét bùng lên trong cổ họng, nhưng nàng không sao thốt ra được. Cảnh tàn sát hàng loạt còn tồi tệ hơn cả cơn ác mộng của một nhân viên kiểm soát không lưu.
Hai người đàn ông ngồi ở hai ghế ngay phía trước nàng – chắc là những người bạn thân, xét đoán theo những lời họ trêu trọc nhau một cách ồn ào và vui nhộn – giờ đây đã chết, tiếng cười đùa của họ lặng im mãi mãi. Đầu của một người đâm xuyên qua cửa sổ. Nàng đã nhận thấy điều đó, nhưng nàng không dám nhìn quá gần. Có cả một biển máu. Nàng nhắm ngay mắt lại và không mở ra cho đến khi nàng quay đầu sang hướng khác.
Ngang qua lối đi, một người đàn ông khác nằm chết, đầu hất ra phía sau tựa vào đệm như thể đang ngủ khi máy bay đáp xuống. Kẻ Cô Độc. Nàng đã thầm gán cho anh ta cái tên đó trước khi máy bay cất cánh. Vì phi cơ thuộc loại nhỏ nên vấn đề trọng tải được quy định chặt chẽ. Trong lúc các hành khách cùng hành lý của họ được cân trước khi lên máy bay, Kẻ Cô Độc đã đứng tach ra khỏi nhóm, thái độ kẻ cả và khó chịu. Vẻ mặt không thân thiện của anh ta đã khiến cho bất cứ một hành khách nào khác đều không muốn bắt chuyện, tất cả những người này đều ồn ào khoác lác về các con thú họ đã săn được. Thái độ lạnh nhạt và xa cách của anh ta đã cách ly anh ta – cũng như giới tính của nàng đã cô lập nàng. Nàng là người phụ nữ duy nhất trên máy bay.
Giờ đây, nàng là người duy nhất còn sống sót.
Nhìn về phía trước nàng có thể trông thấy buồng lái đã bị đứt lìa khỏi thân máy bay, như một cái nút chai đã được mở ra, nằm cách xa mấy mét.
Viên phi công và phi công phụ tá, cả hai đều vui tính và thích đùa, rõ ràng là đã chết một cách thảm khốc.
Nàng cố nuốt chất nước có vị đắng ứa đầy cổ họng, viên phi công phụ tá cường tráng có râu vừa giúp nàng lên máy bay vừa tán tỉnh bảo rằng ông ta ít khi có hành khách phụ nữ và khi có thể họ không bao giờ trông giống như người mẫu thời trang.
Hai hành khách, là hai anh em tuổi trung niên, vẫn còn buộc vào ghế ở hàng phía trước. Họ đã bị giết chết bởi cây sắt nhọn đã tách đôi buồng lái như một cái mở nắp hộp. Gia đình của họ sẽ cảm nhận dữ dội về đôi tấn thảm kịch này.
Nàng bắt đầu khóc. Nỗi tuyệt vọng và sợ hãi tràn ngập tâm hồn nàng. Nàng sợ mình sẽ ngất xỉu. Nàng sợ mình sẽ chết.
Cái chết của những người bạn đồng hành với nàngh đã ập đến nhanh chóng và không đau đớn. Có lẽ họ đã chết ngay lúc xảy ra vụ va đụng . Họ đã ra đi một cách nhẹ nhàng theo nàng biết, nàng đã không bị thương tích gì như là một phép lạ. Nàng sẽ chết một cách từ từ vì khát, đói, bị bỏ ngoài trời.
Nàng tự hỏi tại sao mình vẫn còn sống. Cách giải thích duy nhất là nàng ngồi ở hàng cuối. Không giống như những hành khách khác, nàng đã bỏ rơii một người ở chòi săn bên Hồ Gấu Lớn. Cuộc tạm biệt của nàng đã kéo dài, do đó nàng là người cuối cùng lên máy bay. Tất cả các ghế đều đã có người ngồi ngoại trừ cái ở hàng cuối.
Khi viên phi công phụ tá đỡ nàng lên máy bay, các cuộc đối thoại ồn ào bất thần dừng lại.Cúi thấp người xuống vì trần thấp, nàng đi đến cái ghế duy nhất còn trống. Nàng cảm thấy rõ ràng là không thoái mái do nàng là người phụ nữ duy nhất trên máy bay. Cứ giống như đi trong một căn phòng đầy khói thuốc lá đang diễn ra một cuộc đánh bài xì phé quyết liệt. Một số sự việc mang vẻ nam tính một cách tự nhiên đặc biệt, và dù có một sự cân bằng giới tính vẫn không thay đổi được. Giống như một số sự việc mang vẻ nữ tính một cách tự nhiên đặc biệt.
Một chiếc phi cơ bay đến chòi săn và câu cá ở Vùng Đất Mới Tây Bắc là một trong những việc của giới đàn ông. Nàng đã cố làm cho mình hết sức nhỏ nhoi, không nói gì, ngồi yên trên ghế và nhìn ra ngoài cửa sổ. Có một lần ngay sau khi máy bay cất cánh, nàng đã quay đầu và tình cờ bắt gặp ánh mắt của người đàn ông ngồi bên kia lối đi. Anh ta nhìn nhìn nàng với một vẻ ác cảm rõ ràng đến nỗi nàng đã quay trở lại về phía cửa sổ và không nhìn nơi nào khác nữa.
Ngoại trừ hai viên phi công, có lẽ nàng là người đầu tiên để ý tới cơn bão. Cùng với sương mù dày đặc, cơn mưa như thác đổ khiến nàng căng thẳng. Chẳng bao lâu sau những người khác bắt đầu chú ý tới chuyến bay xóc mạnh. Cuộc trò chuyện khoác lác ồn ào của họ được thay thế bằng những lời châm biếm đầy lo lắng về việc an toàn qua khỏi chuyến bay này và vui mừng vì các phi công đang “lái” chứ không phải là một người trong bọn họ.
Nhưng các viên phi công đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Tất cả mọi người đều nhanh chóng nhận thấy rõ điều đó. Cuối cùng họ im thin thít và mắt không rời khỏi những người trong buồng lái. Sự căng thẳng bên trong chiếc phi cơ gia tăng khi phi hành đoàn gồm hai người mất liên lạc vô tuyến với mặt đất. Các thiết bị của máy bay không còn có thể dựa vào nữa bởi các con số hiện ra đều rõ ràng là không chính xác. Do lớp mây không thể nhìn qua được, họ đã không trông thấy mặt đất kể từ khi máy bay cất cánh.
Khi chiếc phi cơ chúi mũi xuống theo đường xoắn ốc và viên phi công la lớn về phía hành khách: “Chúng ta đang rơi. Xin Chúa ở với chúng ta” tất cả mọi người nghe cái tin đó một cách cam chịu và với một sự bình tĩnh đáng kinh ngạc.
Nàng đã gập đôi người lại và ép đầu vào giữa hai đầu gối với hai cánh tay trùm lên trên, cầu nguyện suốt đoạn đường rơi xuống dài như bất tận.
Nàng sẽ không bao giờ quên được chấn động của cú va đụng chói tai đầu tiên đó. Cho dù đã sẵn sàng ứng phó, nàng đã không được chuẩn bị một cách đầy đủ. Nàng đã không biết tại sao nàng đã không bị chết ngay, trừ phi khổ người nhỏ hơn của nàng đã giúp nàng chèn mình vào giữa hai cái ghế một cách an toàn hơn và làm giảm tác dụng của sự va chạm.
Tuy nhiên, trong tình huống này, nàng không coi rằng việc thoát chết của nàng là một khả năng thuận lợi. Người ta chỉ có thể đến căn chòi trên mũi phía tây bắc của Hồ Gấu Lớn bằng máy bay. Nhiều cây số của vùng đất hoang dã chưa có ai bén mảng tới nằm giữa chỗ đó và Dao Vàng, nơi họ đến. Chỉ có Chúa mới biết được chiếc máy bay đã rơi xuống cách xa lộ trình bay bao nhiêu. Các nhà chức trách sẽ tìm kiếm hàng tháng mà vẫn không phát hiện được nàng. Cho đến khi họ tìm được – chắc chắn là như thế – nàng vẫn hoàn toàn đơn độc và chỉ biết dựa vào bản thân để sống còn.
Ý nghĩ đó đốc thúc nàng phải hành động. Với cơn kích động gần như cuồng loạn nàng vùng vẫy để thoát ra khỏi dây an toàn. Nó bật mở ra và nàng ngã chúi về phía trước, đập đầu vào ghế ở trước nàng. Nàng thận trọng lách qua lối đi chật hẹp và, bằng tay với đầu gối, bò về phía khe nứt của máy bay.
Tránh đụng chạm tới các tử thi, nàng nhìn lên qua tấm kim loại bị xé toạc ra. Mưa đã tạnh, nhưng những đám mây thấp, dày đặc, màu xanh sẫm có vẻ hết sức nặng nề với mối đe dọa dường như sẵn sàng nổ tung. Thỉnh thoảng, tiếng sấm lại nổi lên. Bầu trời có vẻ lạnh lẽo, ẩm ướt và hăm he. Nàng nắm cổ chiếc áo khoác lông chồn màu đỏ kéo lên kín cổ. Hầu như không có một cơn gió. Nàng nghĩ rằng nàng phải cảm ơn về điều đó. Gió có thể trở nên rất lạnh…. Nhưng khoan đã! Nếu không có gió thì tiếng rên rỉ đó xuất hiện từ đâu?
Nàng nín thở chờ đợi.
Lại có thứ tiếng đó.
Nàng ngó quanh, lắng tai nghe. Quả thực không dễ nghe bất cứ gì ngoại trừ tiếng đập thình thịch của tim nàng.
Một tiếng cựa mình.
Nàng nhìn về phía người đàn ông ngồi trên chiếc ghế bên kia lối đi. Có phải đây chỉ là mơ tưởng của nàng hay là mí mắt của Kẻ Cô Độc nhấp nháy? Nàng trườn trở lên lối đi, chạm vào cánh tay đong đưa đang chảy máu của một trong những nạn nhân. Nàng đã cẩn thận tránh chạm vào nó chỉ mới cách đây không lâu.
– Ôi, lạy Chúa, xin để cho anh ta còn – nàng khẩn thiết cầu nguyện.
Tới ghế anh ta, nàng nhìn xuống mặt anh ta. Anh ta vẫn có vẻ đang nghỉ ngơi một cách thanh thản. Hai mí mắt anh ta hoàn toàn im lìm. Không một chút nhấp nháy. Không một tiếng rên rỉ nào thốt ra từ đôi môi bị che khuất bởi bộ râu mép dày, rộng. Nàng nhìn vào ngực anh ta, nhưng anh ta mặc một chiếc áo khoác chần bông, do đó không thể nào biết được anh ta đang thở hay không.
Nàng đặt ngón tay trỏ dọc theo vành râu phía trên, ngay bên dưới lỗ mũi anh ta. Nàng thốt lên một tiếng kêu không lời khi nàng cảm thấy luồng không khí ẩm. Ngất xỉu, nhưng chắc chắn còn sống.
– Cảm tạ Chúa, cảm tạ Chúa.
Nàng bật cười và khóc cùng một lúc. Nàng vỗ nhẹ vào má anh ta.
– Tỉnh dậy đi. Xin tỉnh dậy đi.
Anh ta rên rỉ, nhưng vẫn không mở mắt. Trực giác cho nàng hay rằng anh ta càng hồi tỉnh sớm càng tốt. Vả lại, nàng cần biết chắc anh ta không chết hay sắp chết – tối thiểu là không phải ngay tức khắc. Nàng rất cần biết rằng nàng không chỉ có một mình.
Lập luận rằng không khí lạnh có thể giúp anh ta tỉnh lại, nàng quyết định đưa anh ta ra bên ngoài máy bay. Công việc này sẽ không dễ dàng, có lẽ anh ta nặng hơn nàng tới bốn mươi lăm ký hoặc hơn nữa.
Nàng cảm thấy điều đó trong lúc nàng mở dây an toàn của anh ta và sức nặng mất cảm giác của anh ta ngã vào nàng như một bao bê tông trộn sẵn. Nàng dùng vai phải đỡ anh ta trong khi nàng trở xuống lối đi về phía chỗ hở, nửa nâng anh ta lên, nửa kéo lê anh ta theo nàng.
Cuộc hành trình hơn hai mét đó làm nàng mất trên nửa tiếng đồng hồ. Cánh tay đẫm máu đặt trên chỗ dựa tay khiến họ vướng víu. Nàng phải khắc phục nỗi ghê tởm chạm vào đó, di chuyển nó sang một bên. Hai tay nàng dính máu nhầy nhụa. Nàng khóc thút thít với nỗi đau khủng khiếp, nhưng ghim chặt môi dưới đang run rẩy và tiếp tục kéo mạnh gã đàn ông dọc theo lối đi từng phân một cách vất vả, khổ sở.
Nàng bỗng có ý nghĩ rằng bất kể anh ta bị thương tích gì, nàng có thể làm cho vết thương nặng hơn bằng cách di chuyển anh ta. Nhưng nàng đã đi khá xa; giờ đây nàng không thể dừng lại. Định ra một mục tiêu và đạt tới đó có vẻ rất quan trọng, nếu không vì một lý do nào khác hơn là chứng tỏ nàng không phải bất lực. Nàng đã quyết tâm đưa anh ta ra bên ngoài, và đó là việc nàng sẽ phải làm cho dù nó giết chết nàng.
Điều đó rất có thể, nàng nghĩ mấy phút sau đó. Nàng đã di chuyển anh ra hết sức xa về phía trước. Thỉnh thoảng anh ta lại rên rỉ, nhưng anh ta vẫn không có dấu hiệu hồi tỉnh. Bỏ anh ta trong chốc lát, nàng trèo qua những cành cây thông. Toàn bộ hông bên trái của thân phi cơ gần như bị xé nát, do đó kéo anh ta qua các cành cây là cả một vấn đề. Với hai bàn tay trần, nàng cố hết sức bẻ các cành nhỏ hơn trước khi quay lại với gã đàn ông.
Nàng phải mất năm phút chỉ để quay người anh ta, như thế nàng mới có thể ôm chặt anh ta phía dưới cánh tay. Rồi, thụt lùi qua đoạn đường chật hẹp đầy những mũi nhọn mà nàng đã phát quang, nàng kéo anh ta theo sau nàng. Những lá thông chích vào mặt nàng. Vỏ cây lởm chởm làm trầy hai ban tay nàng. Nhưng may mắn thay lớp áo quần khá dày của nàng bảo vệ cho da nàng.
Hơi thở của nàng trở nên khó khăn trong lúc nàng ráng sức. Nàng nghĩ đến việc ngừng lại để nghỉ, nhưng sợ rằng mình sẽ không bao giờ gia tăng sức lực đủ để khởi động trở lại. Giờ đây “gánh nặng” của nàng rên rỉ gần như liên tục. Nàng biết chắc hẳn anh ta đang hấp hối, nhưng nàng không thể dừng lại nếu không anh ta có thể bất tỉnh lâu hơn nữa.
Cuối cùng nàng cảm thấy lạnh trên má. Nàng chui đầu ra khỏi cành cây cuối cùng và bước ra ngoài trời. Lảo đảo một vài bước về phía trước, nàng kéo gã đàn ông cho đến khi anh ta cũng lọt ra ngoài. Mệt lử đến mức không thể tin nổi, các bắp thịt của hai cánh tay nàng cũng như lưng và chân nóng bừng lên vì cố gắng quá sức, nàng ngồi phịch xuống. Đầu gã đàn ông ngã vào đùi nàng.
Chống tay lên đất và nghiêng đầu ngó lên trời, nàng giữ tư thế đó cho đến khi nàng lấy lại được hơi thở. Lần đầu tiên, trong lúc hít không khí lạnh buốt vào phổi, nàng nghĩ rằng thật là thích thú vì vẫn còn sống. Nàng cảm tạ Chúa vì nàng đã như thế. Và cũng cảm ơn cả anh ta vì đã khiến cho nàng không còn cô độc.
Nàng nhìn xuống gã đàn ông và chợt trông thấy chỗ sưng lần đầu tiên. Anh ta có một chỗ phồng lên bằng một quả trứng bên thái dương. Rõ ràng nó đã khiến anh ta bất tỉnh. Nhấc vai anh ta lên đủ cao để rút chân nàng ra khỏi phía dưới thân hình anh ta, nàng bò quanh tới bên hông anh ta và bắt đầu cởi nút chiếc áo khoác dày cộm của anh ta. Nàng cầu nguyện sẽ không khám phá ra một vết thương chí tử. Đúng là không. Chỉ có chiếc sơ mi bằng vải len mà không một tay săn bắn tài tử nào mà lại không mặc. Không có vết máu trên đó. Từ cổ lọ của cái áo lót cho đến phần trên của đôi ủng buộc dây, nàng không sao tìm thấy một dấu hiệu chảy máu nào cả.
Buông ra một hơi thở mạnh vì nhẹ nhõm, nàng cúi xuống phía trên anh ta và vỗ nhẹ vào má anh ta một lần nữa. Nàng phỏng đoán anh ta vào khoảng bốn mươi tuổi, nhưng những năm đã đi qua trong đời anh ta không lấy gì làm thoải mái. Mái tóc hơi dài, gợn sóng của anh ta có màu nâu. Râu mép cũng thế. Nhưng râu cũng như lông mày rậm của anh ta lại có mấy chòm vàng hoe. Da anh ta rám nắng. Có nhiều mạng gân nhỏ ở khóe mắt. Miệng anh ta rộng và mỏng, môi dưới hơi dày hơn môi trên.
Gương mặt cứng cáp này không có vẻ là của kẻ quen ngồi trong văn phòng, anh ta đã trải qua một thời gian dài ngoài trời. Đó là một gương mặt dễ thương, nếu không phải là đẹp trai một cách cổ điển. Nó mang một vẻ rắn rỏi, một vẻ khó gần gũi và nàng có cảm giác chính con người anh ta cũng vậy.
Nàng lo lắng tự hỏi anh ta sẽ nghĩ gì khi anh ta hồi tỉnh và nhận thấy chỉ còn lại một mình cùng với nàng trong vùng đất hoang dã, nàng đã không phải chờ đợi lâu để khám phá ra. Một lát sau, mí mắt anh ta nhấp nháy, rồi mở ra.
Đôi mắt xám sắt đá như bầu trời phía trên cao chăm chú nhìn nàng. Chúng nhắm lại rồi lại mở ra. Nàng muốn nói, nhưng sự hoang mang sợ hãi giữ nàng lại. Từ đầu tiên phát ra từ đôi môi anh ta nghe hết sức thô lỗ đó là do cơn đau đớn của anh ta. Anh ta lại nhắm mắt và mấy giây sau đó mới mở ra.
Rồi anh ta hỏi:
– Chúng ta rớt máy bay à?
Nàng gật đầu, và anh ta hỏi tiếp:
– Bao lâu rồi?
– Tôi không biết rõ. Có lẽ là một giờ.
Răng nàng khua lập cập. Không phải vì trời lạnh, thế thì chắc hẳn vì sợ. Sợ anh ta à? Vì sao?
Rên rỉ vì đau đớn, anh ta úp một bàn tay lên chỗ sưng bên đầu và chống tay kia để ngồi dậy. Nàng xích sang một bên để cho anh ta có thể ngồi thẳng người.
– Những người khác ra sao rồi?
– Tất cả đều đã chết.
Anh ta cố đứng lên trên một đầu gối và lảo đảo như bị chóng mặt. Theo phản xạ tự nhiên nàng đưa một bàn tay ra để giúp đỡ anh ta nhưng anh ta đã gạt đi.
– Cô chắc chắn chứ?
– Chắc chắn họ đã chết? Đúng thế. Tôi muốn nói tôi nghĩ vậy.
Anh ta quay đầu và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ hiểm ác.
– Cô đã kiểm tra mạch của họ chưa?
Nàng chợt đổi ý về đôi mắt anh ta. Chúng không giống như bầu trời một chút nào. Chúng lạnh lẽo hơn và hắc ám hơn nhiều.
– Không, tôi chưa kiểm tra, – nàng thừa nhận với vẻ hối tiếc.
Anh ta nhìn sững nàng một cách khinh thường trong mấy giây, rồi với một sự chật vật hết sức, đứng thẳng người lên. Sử dụng thân cây phía sau làm chỗ dựa, anh ta cố gắng giữ thăng bằng.
– Anh … anh cảm thấy như thế nào?
– Như sắp sửa nôn.
Rõ ràng anh ta thích nói thẳng ra.
– Có lẽ anh nên nằm trở xuống.
– Chắc phải thế thôi.
– Vậy à?
Vẫn kê đầu trên một bàn tay, anh ta ngẩng lên và nhìn nàng.
– Cô có tình nguyện đi vào đó và kiểm tra mạch của họ?
Anh ta chợt trông thấy hai má nàng tái mét và mỉm một nụ cười chế giễu:
– Tôi chỉ nghĩ thế thôi.
– Không phải chính tôi đã đưa anh ra hay sao?
– Phải, – anh ta nói một cách lạnh nhạt, – chính cô đã đưa tôi ra.
Nàng không trông đợi anh ta hôn tay nàng vì đã cứu sống anh ta, nhưng một tiếng cám ơn đơn giản cũng là tốt lắm rồi.
– Anh là một con người vô ơn…
– Bỏ đi. – Anh ta nói.
Nàng quan sát anh ta cố bật ra khỏi thân cây và vừa loạng choạng về phía chiếc phi cơ đã bị phá hủy vừa xô các cành cây qua một bên với sức mạnh nhiều hơn nàng có thể tích lũy trong một tháng.
Ngã quỵ lên mặt đất sình lầy, kê đầu lên hai đầu gối, nàng chỉ muốn khóc. Nàng có thể nghe anh ta di chuyển vào trong buồng hành khách – khi nàng ngẩng đầu lên và nhìn, nàng trông thấy anh ta qua khung kính chắn gió đã bị bay tấm kính của buồng phi công. Anh ta đang di chuyển một cách dửng dưng, hai bàn tay rà trên tử thi của hai viên phi công.
Nhiều phút sau, anh ta quay lại qua các thân cây đổ.
– Cô nói đúng. Tất cả đều đã chết.
Anh ta trông đợi nàng phản ứng như thế nào? Anh ta thả một cái hộp sơ cứu màu trắng trên mặt đất và quỳ xuống bên cạnh rồi lấy ra một lọ aspirin và ném ba viên vào cổ rồi nuốt chửng.
– Đến đây! – Anh ta ra lệnh cho nàng một cách thô lỗ.
Nàng chạy nhanh về phía trước và anh ta đưa cho nàng một cây đèn pin.
– Cô hãy chiếu thẳng vào mắt tôi, lần lượt từng bên, và nói với tôi điều gì xảy ra.
Nàng bật đèn lên. Mắt kính phía trên bóng đèn đã bị vỡ, nhưng nó vẫn còn hoạt động. Nàng chiếu đèn vào con mắt bên phải của anh ta, rồi con mắt bên trái.
– Con ngươi thu nhỏ lại.
Anh ta lấy cây đèn khỏi tay nàng và tắt đi.
– Tốt. Không chấn thương. Chỉ là một cơn đau đầu tồi tệ. Cô khỏe chứ?
– Tôi nghĩ vậy.
Anh ta nhìn nàng với vẻ ngờ vực, nhưng lại gật đầu.
– Tên tôi là Rusty Carlson – nàng nói một cách lễ độ.
Anh ta bật ra một tiếng cười ngắn. Đôi mắt anh ta di chuyển lên để nhìn vào mái tóc nàng.
– Rusty hả?
– Vâng, Rusty, nàng cáu kỉnh trả lời.
Tượng hình đấy.
Gã đàn ông có thái độ của một con heo.
– Anh có tên chứ?
– Phải. Tôi có tên chứ. Cooper Landry. Nhưng đây không phải là một buổi chiêu đãi ngoài trời vì thế cô hãy tha thứ cho tôi nếu không ngả mũ và nói :”Vui mừng được gặp cô”.
Đối với hai người còn sống sót duy nhất trong một vụ rớt máy bay, họ đã có một khởi đầu không ra gì. Ngay lúc này Rusty muốn được vỗ về, trấn an rằng nàng đã còn sống và sẽ tiếp tục sống. Tất cả những gì anh ta đem lại cho nàng chỉ là sự khinh miệt không có lý do xác đáng.
– Anh sao vậy? – nàng tức giận hỏi – anh hành động như thể vụ rớt máy bay là lỗi của tôi.
– Có lẽ đúng thế đấy.
Nàng há hốc miệng một cách khó tin.
– Cái gì? Tôi đâu có chịu trách nhiệm về cơn bão.
– Không. Nhưng nếu cô không kéo dài buổi chia tay lâm ly đầy nước mắt với lão già dê đó, có lẽ chúng ta đã tránh được nó. Chuyện gì đã khiến cô ra đi trước lão ta – đôi tình nhân đã có một cuộc cãi vã vặt chứ gì?
– Không liên quan gì đến anh, – nàng nói qua kẽ răng, hai hàm răng đã được chỉnh ngay ngắn đến mức tuyệt mỹ bởi một bác sĩ nha khoa thuộc loại đắt giá.
Vẻ mặth anh ta không hề thay đổi.
– Và cô không liên can gì đến việc ở môt nơi như thế này…
Anh ta nhìn nàng từ đầu tới chân trong lúc nói tiếp:
– Với loại đàn bà như cô.
– Loại đàn bà gì?
– Thôi đi. Chỉ cần nói rằng tôi sẽ dễ chịu hơn nếu không có cô.
Nói đoạn, rút một con dao săn ra khỏi chiếc bao da gắn ở thắt lưng. Rusty tự hỏi phải chăng anh ta sắp sửa cắt cổ nàng với con dao đó và tự mình loại bỏ sự phiền phức do nàng gây ra. Thay vì vậy, anh ta quay đi và bắt đầu chặt những cành cây nhỏ hơn , dọn một lối đi để có thể tới được thân máy bay dễ dàng hơn.
– Anh định làm gì thế?
– Tôi phải đưa họ ra.
– Những … những người khác? Tại sao?
– Trừ phi cô muốn làm bạn cùng phòng với họ.
– Anh định chôn họ sao?
– Đúng là tôi có ý đó. Cô có ý gì hay hơn à?
Không, lẽ tất nhiên nàng không có, vì vậy nàng không nói gì. Cooper Landry phát quang cho đến khi chỉ còn lại những cành cây lớn. Họ đã có thể đi lại dễ dàng hơn.
Rusty muốn tỏ ra hữu dụng bằng cách kéo các canh cây sang một bên trong lúc anh ta chặt chúng, rồi hỏi:
– Chúng ta ở lại đây sao?
– Lúc này thì đành phải thế.
Sau khi dọn một lối đi thuộc loại tồi, anh ta bước vào thân máy bay và ra dấu cho nàng bước tới rồi nói:
– Cô nắm lấy đôi ủng của anh ta, được chứ?
Nàng nhìn xuống đôi ủng của người chết. Nàng không thể làm việc này. Không có gì trong cuộc đời nàng chuẩn bị cho việc này. Anh ta không thể trông đợi nàng làm một việc kỳ cục như vậy.
Nhưng liếc mắt lên nhìn anh ta và bắt gặp đôi mắt xám có thể xiêu lòng đó, nàng biết rằng anh ta đang trông đợi nàng làm việc này và trông đợi nàng làm mà không tranh cãi.