Ngôi nhà của cô, ở lô đất tiếp theo nhìn từ phía nhà thờ thánh Romanus, thực sự trông giống một pháo đài hơn: một thành trì bằng đá vĩ đại khiến người ta không khỏi nghĩ nó có thể chống chọi cả một cuộc vây ráp của quân Hung Nô. Cô có thể thấy rõ mặt tôi thộn ra thế nào trước sự kiên cố đó, nên đã giải thích ngay rằng cô không thể tưởng tượng được việc phải sống trong một tòa nhà không thể đương đầu với dòng chảy thời gian.
Khi cô giúp tôi ra khỏi xe, tôi hỏi liệu cô có thấy sợ khi sống cạnh một nghĩa trang không. Cô chỉ nhún vai và nhắc tôi để ý những phiến đá lát đường vì vài viên đã long ra. Cô lầm bầm giải thích về cái cây vươn lên trên chiếc xe cút kít như một chậu cây cảnh, bánh trước gỉ sét của nó ngập trong đất mùn. Một hòm thư được cấu tạo sao cho thư được nhét vào cái miệng há hốc của một con rồng.
Ở hông nhà là hai cánh cửa gỗ sồi to tướng với bản lề bằng thép nặng trịch mở lối xuống xưởng chế tác dưới tầng hầm, được lắp đặt đặc biệt để những tảng đá tạc tượng có thể lọt qua. “Cải tiến được nhiều như thế này là nhờ vào việc giảm thuế. Nhân tiện, đó là những gì Jack nói với tôi.” NGƯƠI VẪN CHƯA QUÊN CHUYỆN CỦA JACK, ĐÚNG KHÔNG?
Một con chó màu nâu sữa chạy ra từ sân sau, con Bougatsa nổi tiếng đây mà. Marianne Engel cúi xuống xoa xoa cái đầu to bự ngu ngốc của nó, kéo tai nó ra sau. “Boogie!” Chỉ cần mất một giây là có thể xác định ngay con cẩu này đã củng cố tất cả những gì tôi ghét về loài chó. Nó trông đần độn theo đúng kiểu của chó, cái lưỡi lờ đờ liếm hết bên này đến bên khác, cái đầu lúc lắc xung quanh như một vũ nữ Hawaii bằng nhựa õng ẹo ngồi trên bảng điều khiển xe ô tô của một tay ma cô.
TA CƯỢC RẰNG JACK LÀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG BÌNH THƯỜNG. CÓ NHIỀU THỨ ĐẦY HỨA HẸN.
“Chúng ta hát cho chàng trai dễ thương này một bài nhé?” Marianne Engel rên lên như một dã nhân chân to rít thuốc hết điếu này đến điếu khác, và Bougatsa hùa vào, cố bắt chước. Tôi đã biết rõ là cô hát rất hay, thế nên rõ ràng cô chỉ hát kiểu này để chơi với con cún của mình thôi. Giờ đây tai tôi chỉ còn là mấy mẩu thịt be bé, từa tựa như quả mơ khô nhú ra từ cái đầu đặc kín bé tí thôi. Tai phải hầu như đã điếc hẳn nhưng tai trái vẫn còn đủ thính để nhận ra những âm thanh ấy khủng khiếp đến mức nào. Hai cái đầu nghiêng ngả khiến người ta nghĩ rằng hai kẻ chủ tớ đang tưởng tượng ra những nốt thăng lượn lờ trên đầu mình, chờ họ nhảy lên vồ lấy. Họ trượt. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Marianne Engel lại sống cạnh một nghĩa trang: ngoài người chết ra còn ai có thể chịu nổi cô cơ chứ?
MỘT CÔNG VIỆC CHẲNG HẠN. Con rắn cái. HAY LÀ MỘT TƯƠNG LAI.
Trong khi chủ tớ bọn họ chơi trò chó sủa mèo kêu, tôi mải mê ngắm nhìn ngôi nhà kỳ dị của cô. Những bậu cửa sổ được làm bằng gỗ dày, còn cửa sổ gắn kính pha chì dày tới mức một quả bóng rổ đi lạc chỉ có nước bật ngược trở lại. Những phiến đá tảng trông như thể đã được đám đàn ông lông lá bụng bự lần lượt đặt vào vị trí rồi đập cho ngay hàng thẳng lối bằng những cái vồ nặng trình trịch. Dây trường xuân xanh mướt lan trên những bức tường hướng về phía điểm nổi bật nhất của toàn bộ chỗ này: những con quái vật chạm khắc dọc theo máng xối. Để kéo Marianne Engel khỏi trò chơi hò la, tôi nhận xét rằng bình thường chẳng thấy nhiều tượng gargoyle ở nhà riêng như thế này.
“Anh mà thấy thế thì tôi đã giàu lâu rồi. Chúng rất được ưa chuộng đấy, tôi còn được lên báo nữa cơ. Hơn nữa, tôi còn có nhiều cậu bé đến nỗi chưa biết làm gì với chúng đây.”
Lũ quỷ liếc nhìn xuống, đôi mắt lồi to đùng của chúng trân trối nhìn tôi dù tôi bước sang phải hay trái. Những cơ thể xoắn vặn của chúng mê hoặc tôi: phần thân trên của một người đàn ông nối với cái đuôi cá nhưng vẫn không biến ông ta thành một nam nhân ngư thực thụ được; cái thân khỉ lủng lẳng trên hông ngựa; cái đầu bò thò ra từ thân một con sư tử có cánh. Một con rắn mọc ra từ một con dơi. Một khuôn mặt phụ nữ giận dữ khạc ra đầy những cóc. Trên tất cả những thân thể được khắc chạm ở đây, những con quái vật tạp nham cùng tồn tại với nhau; thật khó có thể xác định chỗ kết thúc và điểm bắt đầu tiếp theo, và cũng không thể biết được rằng con dã thú nào – hay phần nào của con dã thú – là tốt hay xấu.
“Ta cần đặt chúng trên đó,” Marianne Engel nói.
“Để làm gì?”
“Để đuổi những linh hồn xấu xa đi.” Cô nắm tay tôi dẫn tôi qua cửa chính. Tôi hỏi sao cô không xây cầu kéo và đào hào nữa cho đủ bộ. Luật trong vùng, cô giải thích.
Tôi cứ nghĩ nội thất trong nhà sẽ toàn thảm và ngai vàng phủ nhung, nhưng tất cả chỉ là một khoảng không trống rỗng. Những cây cột gỗ vuông vắn chống đỡ mái nhà, còn sàn nhà thì lát ván cỡ đại. Cô treo áo khoác lên cái giá bằng sắt ngay phía sau cửa, thế rồi nhận thấy sự hứng thú của tôi với các đồ gỗ trong nhà, cô bèn nói “Xà nhà là gỗ tuyết tùng còn rui là gỗ linh sam.”
Cô bắt đầu dẫn tôi tham quan nhà cửa, bắt đầu từ phòng khách sơn đỏ. Có một chiếc lò sưởi khổng lồ với họa tiết hình thiên thần và ác quỷ đan xoắn vào nhau quanh cửa lò bằng đáù. Có hai cái ghế bành, với một tấm thảm lớn đặt ở giữa, như thể đang chờ các vị nhiếp chính quan ngồi vào bàn chuyện đại sự.
Phòng ăn treo rất nhiều tranh trên tường, hầu hết đều có những vệt sẫm màu quệt qua các hình ảnh bay lượn. Chúng trừu tượng hơn tôi nghĩ; và nếu phải đoán thì tôi sẽ cho rằng cô có những bức tranh vẽ đề tài tôn giáo. Nhưng không phải thế. Có một chiếc bàn gỗ sồi lớn với những họa tiết hoa màu tím tươi sáng ở chính giữa, và những cây nến đặt chỉn chu trong chân nến bằng thép ở hai bên bàn. “Francesco đã làm những thứ này đấy. Khi anh thấy những đồ kim loại trong ngôi nhà này, anh có thể biết đó là do anh ấy làm.” Tôi gật đầu: Chắc chắn rồi, sao lại không chứ? Nhà nào chẳng được vài con ma Ý trang bị đồ đạc?
Nhà bếp có một bếp lò tròn ủng màu bạc, một cái tủ lạnh kiểu cổ và hàng ấm đồng treo trên trần. Lọ thủy tinh đựng mì sợi và gia vị xếp dọc trên giá, lớp sơn màu hoa hướng dương làm căn phòng rạng rỡ khôn tả. Tất cả mọi thứ đều ở đúng vị trí, và dấu hiệu lộn xộn duy nhất là một cái gạt tàn đầy tràn. Ngôi nhà của cô một lần nữa lại làm tôi bất ngờ: không phải vì cái gạt tàn, mà là vì sự ngăn nắp của nó.
Phòng viết của cô bị chiếm hữu bởi một cái bàn gỗ to tướng mà theo lời cô thì từng là vật sở hữu của một ông vua Tây Ban Nha. Tôi cũng chỉ gật đầu thêm cái nữa: Chắc chắn rồi, sao lại không chứ? Mấy con ma Ý có phải cái gì cũng làm được đâu. Đằng sau bàn là một cái ghế cực kỳ chắc chắn, bên phải ghế là một chiếc đi văng bọc da trông như đang đợi một bệnh nhân của nhà tâm lý học Freud.
Giá sách, nặng trịch sách về các chủ đề nghiêm túc, chiếm trọn ba bức tường. Spenser, Milton, Donne, Blake và Đức ngài Bede đại diện dân Anh. Tác giả người Đức gồm có Hartman von Aue, Wolfram von Eschenbach, Ulrich von Turheim. Walther von der Vogelweide và Patrick Suskind. Tác phẩm văn học Nga gồm có Cuộc đời của đại tư tế Avvakum, Ác quỷ của Mikhail Lermontov và Những linh hồn chết của Nicolai Gogol. Tây Ban Nha cung cấp các kiệt tác của thánh Teresa xứ Avila: Lâu đài nội tâm và Đường đến hoàn thiện. Người Hy Lạp cũng không để bị lãng quên: Homer, Plato, Aristotle, Euripides và Sophocles chiếm hầu hết ngăn cuối cùng, như thể từ lâu chúng đã quyết định rằng giá sách sẽ không thể hoàn thiện nếu mọi cuốn khác không chịu đứng lên vai chúng vậy. Chiếm nửa bức tường là sách Latin, nhưng chỉ có độc hai cuốn thu hút tôi là Giấc mơ của Scipiocủa Cicero và Những biến thái của Ovid. Trông hơi lạc lõng, nhưng không hề muốn bị bỏ rơi khỏi trường quốc tế, là một lượng lớn sách đến từ châu Á. Tôi không thể phân biệt nổi chữ Trung Quốc với chữ Nhật Bản, và thậm chí cả những nhan đề được dịch sang tiếng Anh nhiều khi cũng chẳng giúp tôi đoán được nguồn gốc của cuốn sách. Cuối cùng là bản in của tất cả các tài liệu tôn giáo trọng yếu trên thế giới: Kinh Thánh Thiên Chúa, kinh Do Thái, kinh Koran, bốn bộ kinh Vệ Đà, vân vân.
Điểm nổi bật nhất của bộ sưu tập này là mỗi cuốn sách ngoại văn đều có hai bản, đứng cạnh nhau: bản gốc và bản dịch tiếng Anh. Rất tự nhiên, tôi hỏi Marianne Engel về điều này.
“Bản tiếng Anh là cho anh,” cô nói. “Như thế ta có thể cùng bàn luận về chúng.”
“Thế còn bản gốc?”
“Tôi đọc bản dịch làm gì?”
Marianne Engel lướt qua chồng sách và chọn ra hai cuốn trông có vẻ không phải được in bởi một nhà xuất bản chuyên nghiệp, mà được viết tay trên những tờ giấy dày đóng xộc xệch bằng chỉ thêu. Nét chữ là của cô và bản viết, may mắn làm sao, là tiếng Anh thay vì tiếng Đức. Khải huyền của Christina Ebner và Ân điển-cuộc đời của Friedrich Sunder.
“Tôi nghĩ anh có thể muốn đọc mấy cuốn này,” cô nói, “nên tôi dịch chúng.”
Có một vật thể khá thú vị nữa trên giá sách: một bức tượng thiên thần bằng đá nhỏ với đôi cánh dang rộng về phía Thiên đường. Tôi hỏi có phải cô tạc bức tượng này không nhưng câu hỏi ngây thơ của tôi có vẻ đã làm tổn thương cô. Cô chớp mắt vài lần, như thể cố kìm nước mắt, và mím chặt môi để làn môi dưới run bần bật của mình bình tĩnh lại. “Anh đã tạc cái đó cho tôi,” cô thổn thức nói. Đó là Morgengabe(25) của tôi.
Thế là kết thúc chuyến thăm tầng trệt của tòa nhà. Xưởng tạc tượng của cô nằm ở tầng hầm, nhưng chân tôi chẳng còn sức mà đi nữa. Ngày đầu rời bệnh viện đối với tôi thế là đã quá đủ rồi, và sự thật là, tôi thấy choáng ngợp trước cảm giác tự do. Tôi đã dần quen với việc thuộc từng phân ngoại cảnh và từng phút lịch trình, vậy mà giờ tôi đang phải đối mặt với những cảm giác mới lạ bất tận. Chúng tôi ngồi tại phòng khách chuyện trò trong thời gian còn lại của buổi chiều, nhưng cô vẫn không lấy lại được nụ cười đã tắt vì câu hỏi của tôi về bức tượng thiên thần.
CHUYỆN NÀY CHẲNG KÉO DÀI LÂU ĐÂU, NGƯƠI CŨNG BIẾT ĐẤY. Con rắn quấn đuôi quanh ruột tôi. NGƯƠI SẼ LÀM TỔN THƯƠNG CÔ TA BẰNG SỰ THIẾU NHẠY CẢM CỦA MÌNH CHO MÀ XEM.
Vào đầu buổi tối, tôi leo cầu thang lên tầng trên với sự hộ tống của Marianne Engel, phòng tôi bị trượt chân. Tôi khao khát một mũi morphine để bịt mồm con rắn cái khốn kiếp. Tôi được chọn hai phòng: một là phòng dành cho khách, đã dọn sẵn, một là cái góc nhỏ trông chẳng khác gì gác xép trông ra khu nghĩa trang đằng sau nhà thờ thánh Romanus. Marianne Engel khá lo lắng về cấu trúc kỳ dị của căn phòng, lép kẹp vào góc mái, có thể quá khó chịu cho tôi sau hàng tháng trời nằm viện, nhưng tôi ngay lập tức thấy thích nó. “Nó giống như một cái tháp chuông nhà thờ ấy. Rất tuyệt.”
Morphine cô tiêm cho tôi giờ ngọt ngào hơn cả cơn mưa đầu mùa trên sa mạc, và con rắn lặng lẽ trườn lại vào cái ổ của mụ. Tôi cứ nghĩ mình có thể ngủ một mạch đến tận sáng hôm sau, nhưng đời không đẹp như tôi tưởng. Đang là tháng Hai và ngoài trời vẫn chưa ấm lắm, nhưng vì một vài lý do nào đó trong nhà lại nóng một cách quái gở. Có lẽ một phần là do ảnh hưởng tâm lý, tôi có hơi căng thẳng vì lần đầu tiên ngủ ở một nơi xa lạ sau mười tháng trời.
Làn da chết của tôi nóng bừng lên trong cái đêm ngây ngấy sốt ấy và tôi đã mơ về những trại tập trung, về những lò thiêu người và những cơ thể gầy rộc. Cơn đói biến họ thành những sinh vật gầy guộc đến nỗi không còn ra hồn người. Mắt họ lồi ra buộc tội; họ săn đuổi tôi với ánh nhìn như ăn tươi nuốt sống. Ai đó nói bằng tiếng Đức, “Alles brennt, wenn die flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel.” Tất cả sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy. Đó là câu tôi đã nghe thấy trong cơn ác mộng về chiếc giường xương bùng cháy giữa những tấm vải liệm khi còn nằm viện.