Dấu Chân Của Chúa

Chương 2


Rachel Weiss có mái tóc đen huyền, nước da ôliu và đôi mắt màu mã não. Cách đây mười một tuần, tôi đã đến phòng khám của cô để khám bệnh lần đầu. Tôi nhớ đến nhân vật Rebecca trong tiểu thuyết Ivanhoe của Ngài Walter Scott. Chỉ trong tiểu thuyết mới có vẻ đẹp hoang dã và phóng túng như của Rebecca. Ở Rachel Weiss toát ra một vẻ khắc khổ rõ nét khiến ngoại hình và quần áo của cô không tương thích, dường như cô phải hành xử khác đi để che giấu phong cách tự nhiên của mình, sợ rằng nó có thể khiến mọi người hình dung cô như một cái gì khác hơn chứ không phải một bác sĩ chuyên khoa xuất sắc.

“Cái gì thế này?” cô hỏi, chỉ tay vào tấm nệm đi văng nơi tôi giấu khẩu súng. “Anh lại tự kê đơn thuốc đấy à?”

“Không. Làm thế nào cô tìm được nhà tôi?”

“Tôi biết một chị ở phòng Nhân sự Đại học Virginia. Anh đã bỏ khám hai lần liên tiếp rồi, nhưng ít ra hai lần ấy anh cũng đã gọi trước để báo hủy hẹn. Hôm nay anh lại để tôi ngồi đợi mà không hề gọi điện. Với trạng thái tinh thần của anh thời gian gần đây, anh muốn tôi làm gì cho anh bây giờ?” Đôi mắt Rachel hướng tới màn hình camera “Ồ, David… anh lại trở lại cái này sao? Tôi tưởng anh đã thôi từ nhiều năm rồi.”

“Nó không phải cái cô nghĩ đâu.”

Cô có vẻ không tin. Cách đây năm năm, một lái xe say rượu đã tông xe của vợ tôi xuống hồ nước ven đường. Nước không sâu lắm, nhưng cả Karen và con gái Zooey của tôi đã chết đuối trước khi có người đến cứu. Lúc đó tôi đang làm việc ở chính cái bệnh viện mà họ đưa vợ con tôi đến sau vụ tai nạn. Lòng tôi tan nát khi nhìn các nhân viên cấp cứu cố gắng trong vô vọng để làm đứa con gái bốn tuổi của tôi tỉnh lại. Tôi ngồi lì hàng giờ ở nhà trước màn hình ti vi, xem lại không biết bao nhiêu lần băng hình quay cảnh bé Zooey lẫm chẫm tập đi, Zooey nắc nẻ cười trong vòng tay mẹ, ôm chầm tôi trong buổi sinh nhật lần thứ ba của nó. Sự nghiệp y khoa của tôi lụi tàn, rồi chết hẳn. Tôi rơi vào trạng thái trầm cảm lâm sàng. Đó là chuyện đời tư duy nhất mà tôi kể chi tiết với bác sĩ tâm thần của mình, và chỉ sau lần khám thứ ba cô mới kể rằng năm ngoái cô đã mất đứa con trai duy nhất vì bệnh bạch cầu.

Cô thổ lộ điều này vì cô tin rằng những giấc mơ rối loạn của tôi là do nỗi đau mất mát gia đình gây nên, và cô muốn tôi biết chính cô cũng phải chịu một nỗi đau như thế. Rachel cũng đã mất không chỉ mình đứa con. Không chịu nổi cảnh con trai bị bệnh tật tàn phá, tay luật sư chồng cô đã bỏ cô về New York. Giống như tôi, Rachel rơi xuống hố sâu tuyệt vọng nhưng may sao cô đã ngoi lên được. Thuốc men và trị liệu đã cứu được cô. Nhưng giống như cha tôi, tôi luôn hết sức thu mình vào vỏ ốc, và vật lộn trở lại cuộc sống đơn chiếc. Không một ngày trôi qua mà tôi không nhớ vợ con, nhưng những ngày ngồi nức nở trước đoạn phim video cũ đã qua rồi.

“Đây không phải là về Karen và Zooey,” tôi bảo Rachel. “Làm ơn đóng cửa lại.”

Cô vẫn đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm chìa khóa xe, rõ là nửa muốn tin tôi nửa nghi ngờ chẳng kém. “Thế nó là cái gì vậy?”

“Công việc. Làm ơn đóng cửa lại.”

Rachel ngập ngừng giây lát, rồi đóng cửa và nhìn sâu vào mắt tôi. “Có lẽ đã đến lúc anh nói cho tôi biết về công việc của anh.”

Đây là điểm bất đồng từ lâu giữa tôi và cô. Rachel coi sự tin cẩn giữa bệnh nhân với bác sĩ cũng thiêng liêng như xưng tội, và sự thiếu tin cậy của tôi làm cô bị tổn thương. Cô cho rằng những yêu cầu giữ bí mật và lời cảnh báo nguy hiểm của tôi chẳng qua là dấu hiệu một thực tại hoang tưởng được tôi dựng lên để phòng vệ tâm lý khỏi mọi sự soi mói. Tôi không trách cô. Theo yêu cầu của NSA, tôi phải đến cuộc hẹn khám đầu tiên dưới một cái tên giả. Nhưng mười giây sau khi chúng tôi bắt tay nhau, cô nhận ra ngay bộ mặt tôi trên bìa cuốn sách tôi viết. Cô cho rằng mưu mẹo của tôi là do chứng hoang tưởng của người nổi danh trong giới y khoa, tôi cũng chẳng buồn cải chính. Nhưng sau vài tuần, khi tôi từ chối tiết lộ bất cứ điều gì về công việc của mình – và cứ khăng khăng cho là để “bảo vệ” cô – cô đâm ngờ rằng tôi bị tâm thần phân liệt.

Có điều Rachel không biết là tôi chỉ được phép đến gặp cô sau khi đã thắng một cuộc cãi cọ nảy lửa với John Skow, giám đốc Dự án Trinity. Chứng ngủ rũ của tôi phát sinh do công việc ở Trinity, và tôi cần hỗ trợ chuyên môn để hiểu những giấc mơ đi kèm trong những cơn ngủ rũ ấy.

Đầu tiên NSA đưa từ căn cứ quân sự Meade đến một bác sĩ tâm thần, một nhà tâm thần học-dược lý trị liệu, bệnh nhân chính của ông ta là các kỹ thuật viên luôn phải vật lộn với stress kinh niên và trầm cảm. Ông ta muốn nhồi nhét cho tôi đủ thứ thuốc hưng phấn và tìm hiểu xem làm thế nào để trở thành một bác sĩ có sách được xuất bản trên toàn thế giới như tôi. Sau đó họ đưa đến một phụ nữ, một chuyên gia về rối loạn thần kinh chức năng ở những người bị buộc phải làm việc lâu dài trong bí mật. Trong suốt thời gian cô ở lại đây, tôi thấy kiến thức của cô về ý nghĩa của những giấc mơ chỉ hạn chế ở việc “tích lũy chút ít từ sách vở”. Giống như đồng nghiệp của mình, cô muốn quy định cho tôi một chế độ điều trị chống suy nhược và và chống loạn tâm thần. Nhưng cái tôi cần là một nhà phân tâm học có kinh nghiệm phân tích các giấc mộng, thể loại mà NSA không có.

Tôi gọi các bạn bè ở trường y của UVA và phát hiện ra Rachel Weiss, một chuyên gia phân tích ưu tú thuộc trường phái Jung của đất nước, đang ở trường y thuộc Đại học Duke, cách trụ sở Trinity chưa đến mười lăm dặm. Skow cố ngăn tôi gặp cô, nhưng sau cùng tôi bảo thẳng ông ta rằng chỉ có bắt tôi mới cấm được tôi, nhưng muốn thế, ông ta phải gọi cho tổng thống trước đã, tổng thống là người đã chỉ định tôi vào dự án này.

“Có chuyện rồi thì phải,” Rachel nói. “Cái gì vậy? Ảo giác lại thay đổi à?”

Ảo giác, tôi cay đắng nghĩ. Không bao giờ cô ta gọi là những giấc mơ.

“Chúng mạnh lên phải không? Trở nên riêng tư hơn? Anh sợ phải không?”

“Andrew Fielding chết rồi,” tôi bải hoải nói.

Rachel chớp mắt. “Andrew Fielding là ai?”

“Ông ấy là nhà vật lý.”

Mắt cô mở to. “Nhà vật lý Andrew Fielding chết rồi?”

Điều này cho thấy tiếng tăm Fielding lớn đến cỡ nào, đến một bác sĩ y khoa không hiểu biết mấy về vật lý lượng tử cũng biết tên ông! Nhưng điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Có những đứa bé sáu tuổi cũng nghe nói đến “Thỏ Trắng”. Con người ấy đã làm sáng tỏ phần lớn những bí ẩn về vật chất tối trong vũ trụ, chỉ đứng thứ hai sau bạn ông là Stephen Hawking trong bầu trời vật lý thiên văn.

“Ông ấy chết do đột quỵ,” tôi nói. “Hay người ta bảo thế.”

“Ai bảo thế?”

“Các đồng sự.”

“Anh làm việc với Andrew Fielding?”

“Phải. Từ hai năm nay”

Rachel lắc đầu sửng sốt. “Anh không tin ông ấy bị đột quỵ à?”

“Không.”

“Anh đã khám ông ấy chưa?”

“Có khám qua loa. Ông ấy ngã gục trong văn phòng. Một bác sĩ khác đã phát hiện ra ông ấy trước khi ông ấy chết. Hắn ta nói rằng ông ấy bị liệt nửa người bên trái, và dãn đồng tử trái. Nhưng…”

“Sao?”

“Tôi không tin hắn ta. Fielding chết quá nhanh so với một cơn đột quỵ. Trong vòng bốn hoặc năm phút.”

Rachel mím môi. “Chuyện đó đôi khi cũng xảy ra. Đặc biệt khi bị xuất huyết nghiêm trọng.”

“Đúng, nhưng tương đối hiếm, và dãn đồng tử không phải là chuyện thường thấy.” Điều này có thể đúng, nhưng không phải cái tôi đang nghĩ. Tôi đang nghĩ Rachel tuy là một bác sĩ tâm thần giỏi nhưng cũng chưa qua mười sáu năm thực hành chuyên khoa nội như tôi. Người ta thường có cảm giác chính xác về một số ca nào đấy, một số người nào đấy. Giác quan thứ sáu. Fielding không phải bệnh nhân của tôi, nhưng ông nói với tôi rất nhiều về sức khỏe của ông trong hai năm qua. Tình trạng xuất huyết ồ ạt không phải điều mà tôi cảm nhận. “Coi này, tôi không biết xác ông ấy để ở đâu, và tôi không nghĩ sẽ có mổ tử thi, bởi vậy…”

“Tại sao không mổ tử thi?” Rachel ngắt lời.

“Bởi vì tôi nghĩ ông ấy bị giết.”

“Nhưng anh đã nói ông ấy chết trong phòng làm việc.”

“Thì đúng thế.”

“Anh cho rằng ông ấy bị giết ở nơi làm việc? Bạo lực công sở?”

Cô vẫn không hiểu. “Tôi muốn nói một vụ giết người có dự mưu. Tay giết người này chuyên nghiệp, có tính toán kỹ lưỡng.”

“Nhưng… tại sao người ta lại giết Andrew Fielding? Ông ấy già rồi, đúng không?”

“Ông ấy sáu mươi ba.” Nhớ lại Fielding nằm sõng soài trên sàn phòng làm việc, mồm há hốc, đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà, bỗng nhiên tôi thấy bắt buộc phải nói với Rachel tất cả. Nhưng liếc nhìn ra cửa sổ, sự thôi thúc trong tôi bị nguội đi ngay. Có thể một microphone parabol đang chĩa vào cửa kính.

“Tôi không thể nói điều gì quá giới hạn. Rất tiếc. Cô nên về đi, Rachel.”

Cô tiến hai bước về phía tôi, nét mặt quả quyết. “Tôi sẽ không đi đâu cả. Coi này, ở bang này nếu có bất kỳ ai chết mà không được bác sĩ giám sát thì đều phải khám nghiệm tử thi. Đặc biệt trong những trường hợp mờ ám. Luật pháp yêu cầu thế.”

Tôi cười trước sự ngây thơ của cô. “Sẽ không có cuộc mổ tử thi nào đâu. Dù sao cũng không khám nghiệm công khai.”

“David…”

“Tôi thực sự không thể nói nhiều hơn. Đáng lẽ ra tôi không nên nói nhiều như thế. Tôi chỉ muốn cô hiểu… chuyện đó là thật. “

“Tại sao anh không thể nói nhiều hơn?” Cô giơ bàn tay nhỏ nhắn duyên dáng lên. “Không, để tôi tự trả lời. Bởi vì cho tôi biết nhiều hơn thì sẽ đặt tôi vào thế nguy hiểm, đúng không?”

“Đúng.”

Cô đảo mắt. “David, ngay từ đầu anh đã đưa ra yêu cầu khác thường về bí mật. Và tôi đã tuân theo. Tôi đã nói với đồng nghiệp rằng những giờ anh ở phòng khám của tôi là nghiên cứu cho cuốn sách thứ hai của anh, chứ không nói về những gì thật sự đã xảy ra.”

“Và cô biết rằng tôi rất cảm kích chuyện đó. Nhưng nếu tôi đúng về chuyện Fielding, thì bất kỳ điều gì tôi nói ra bây giờ sẽ đe dọa tính mạng cô. Cô hiểu không?”

“Không, tôi không bao giờ hiểu được. Loại công việc gì mà lại có thể nguy hiểm đến thế?”

Tôi lắc đầu.

“Đây giống như một câu đùa dở tệ.” Cô cười với vẻ kỳ lạ. ” ‘Tôi có thể nói với cô, nhưng sau đó tôi buộc phải giết cô.’ Một suy nghĩ hoang tưởng điển hình.”

“Cô có thật sự nghĩ rằng tôi bịa ra toàn bộ chuyện này không?”

Rachel thận trọng trả lời. “Tôi tin rằng anh tin mọi điều anh nói với tôi là thật.”

“Như vậy, tôi vẫn còn bị ảo giác.”

“Anh phải thừa nhận rằng, đôi lúc anh bị rối loạn ảo giác. Vài vụ gần đây là những ảo giác tôn giáo điển hình.”

“Nhưng phần lớn thì không,” tôi nhắc cô. “Tôi là người vô thần, điều đó có điển hình không?”

“Không, tôi thừa nhận điều này. Nhưng anh đã từ chối cho nghiên cứu kỹ chứng ngủ rũ của anh. Hay là chứng động kinh. Hay thậm chí cả xét nghiệm đường huyết cũng không.”

Tôi đã được nhà tâm thần học hàng đầu thế giới nghiên cứu kỹ lưỡng. “Cái đó đang được điều tra ở nơi làm việc.”

“Bởi Andrew Fielding. Ông ấy không phải là tiến sĩ y khoa, đúng không.”

Tôi quyết định dấn thêm một bước. “Ravi Nara đoạt giải Nobel y học ấy ư?”

Cô há hốc miệng. “Ravi Nara. Nghe như trong giải thưởng Nobel y học?”

“Chính hắn,” tôi nói giọng chán ghét.

“Anh làm việc với Ravi Nara?”

“Phải. Hắn là một thằng ngu. Chính hắn đã nói Fielding chết vì đột quỵ.”

Rachel có vẻ bối rối. “David, tôi không biết nói gì. Có đúng là anh đang làm việc với những người nổi tiếng ấy?”

“Điều đó khó tin đến thế cơ à? Bản thân tôi cũng khá nổi tiếng đấy chứ.”

“Vâng, nhưng… không cùng một kiểu. Lý do nào khiến những người nổi tiếng như thế phải làm việc chung với nhau? Họ ở trong những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.”

“Họ như thế thật, cho đến cách đây hai năm.”

“Ý anh muốn nói gì?”

“Cô trở về văn phòng đi, Rachel.”

“Tôi đã hoãn cuộc hẹn với bệnh nhân cuối cùng để có thể đến đây.”

“Hãy để tôi thanh toán cho chỗ thời gian cô bị mất.”

Cô đỏ mặt lên. “Anh không cần phải xúc phạm tôi. Làm ơn hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi đã quá mệt vì nghe mãi về các ảo giác của anh rồi.”

“Những giấc mơ.”

“Gì cũng được. Chúng không đủ để tôi làm việc.”

“Với mục đích của cô thì không. Nhưng tôi với cô có những mục tiêu khác nhau. Luôn luôn là như thế. Cô đang cố giải câu đố về David Tennant. Tôi đang cố giải câu đố về giấc mơ của tôi.”

“Nhưng câu trả lời gắn chặt với vấn đề anh là ai! Các giấc mơ không độc lập với phần còn lại của bộ óc anh. Anh…”

Tiếng chuông điện thoại cắt ngang lời cô. Tôi đứng lên đi vào trong bếp để nghe, một cái gì rất lạ nhói lên trong ngực tôi. Người gọi điện có thể là tổng thống Hoa Kỳ.

“Bác sĩ Tennant đây,” tôi nói theo thói quen từ nhiều năm.

“Bác sĩ David?” tiếng phụ nữ bấn loạn kêu lên bằng giọng châu Á. Đó là Lu Li, người vợ Trung Quốc của Fielding. Hay bà quả phụ…

“Tôi David đây, chị Lu Li. Tôi xin lỗi chưa kịp gọi cho chị.” Tôi cố tìm lời lẽ thích hợp nhưng chỉ thấy những câu chữ khuôn sáo. “Tôi không sao bày tỏ hết nỗi đau đớn của tôi về việc Andrey qua đời…”

Một tràng tiếng Quảng Đông điểm thêm vài từ tiếng Anh ào ạt tuôn vào dây nói. Tôi không cần phải hiểu toàn bộ mới biết rằng mình đang nghe một phụ nữ mất chồng quẫn trí đang bên bờ vực suy sụp. Chỉ Chúa mới biết bọn an ninh của Trinity đã nói gì với Lu Li, và bà đã làm gì. Bà mới đến Mỹ được ba tháng nay, việc nhập cảnh của bà được Bộ Ngoại giao giải quyết chóng vánh sau khi có cú điện thoại thúc đẩy ra mặt từ Nhà Trắng gọi tới.

“Tôi biết đây là một ngày khủng khiếp,” tôi nói bằng giọng an ủi. “Nhưng tôi mong chị bình tâm lại.”

Lu Li hổn hển.

“Chị cố gắng hít thở thật sâu,” tôi nói, cố tìm cách tiếp cận vấn đề. An toàn nhất là dùng cái vỏ bọc đoàn thể mà NSA đã một mực khẳng định ngay từ đầu. Theo như phần còn lại của các công ty thuộc Công viên Tam giác Nghiên cứu biết, Tập đoàn Quang học Argus đang phát triển các phần tử máy tính quang học được sử dụng trong dự án quốc phòng của chính phủ. Lu Li không thể biết nhiều hơn điều này.

“Công ty đã nói gì với chị?” tôi thận trọng hỏi.

“Andy chết rồi!” Lu Li khóc. “Họ bảo ông ấy chết vì chảy máu não, nhưng tôi không biết gì cả. Tôi không biết phải làm gì.”

Tôi thấy lúc này nêu ra cái giả thiết về vụ giết người khiến bà vợ góa của Fielding kích động thêm thì chẳng ích lợi gì. “Chị Lu Li ạ, Andrew đã sáu mươi ba tuổi, và không phải đang trong tình trạng sức khỏe tốt nhất. Đột quỵ không phải là việc không thể xảy ra trong trường hợp này.”

“Anh không hiểu, bác sĩ David! Andy đã cảnh báo tôi điều này.”

Tay tôi nắm chặt ống nói. “Chị muốn nói gì?”

Một đợt thác lũ tiếng Quảng Đông nữa tràn qua dây nói, nhưng sau đó Lu Li chuyển sang thứ tiếng Anh ngắc ngứ. “Andy bảo tôi chuyện này có thể xảy ra. Ông ấy nói, ‘Nếu xảy ra chuyện gì với tôi, hãy gọi bác sĩ David. Anh ấy biết phải làm gì.’ “

Một cơn đau bóp nghẹt tim tôi. Fielding đã đặt niềm tin như thế vào tôi… “Chị muốn tôi làm gì?”

“Đến đây. Nói chuyện với tôi. Cho tôi biết tại sao chuyện này xảy đến với Andy.”

Tôi lưỡng lự. NSA có thể đã nghe được cuộc trò chuyện này. Đến nhà Lu Li bây giờ chỉ gây thêm rủi ro cho bà ấy, cho cả tôi nữa. Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác. Không thể phụ lòng bạn tôi. “Tôi sẽ đến trong vòng hai mươi phút nữa.”

“Cám ơn, cám ơn David. Làm ơn, cám ơn.”

Tôi gác máy, quay vào phòng khách. Rachel đang đứng ngay ngưỡng cửa bếp.

“Tôi phải đi đây,” tôi bảo cô. “Tôi rất cảm kích vì cô đã đến tận đây thăm bệnh cho tôi. Tôi biết rằng cuộc thăm này nằm ngoài trách nhiệm.”

“Tôi sẽ cùng đi với anh. Tôi đã nghe được vài điều, và tôi sẽ cùng đi với anh.”

“Không thể được.”

“Tại sao?”

“Cô không có lý do để đến đó. Cô không phải người trong cuộc.”

Cô khoanh tay trước ngực. “Đối với tôi thì đây là chuyện nhỏ, được chưa? Nếu quả lời anh nói là đúng, tôi sẽ đi tìm bà góa phụ quẫn trí của Andrew Fielding, chỉ mất ít phút lái xe. Và bà ấy sẽ làm sáng tỏ những gì anh đã nói với tôi.”

“Không cần thiết. Tôi không biết Andrew Fielding đã tiết lộ bí mật với bà ấy đến mức nào. Vả lại bà ấy hầu như không nói tiếng Anh.”

“Andrew Fielding không dạy vợ mình nói tiếng Anh à?”

“Ông ấy nói giỏi tiếng Quảng. Cộng thêm tám thứ tiếng khác nữa. Còn bà ấy thì mới đến đây được vài tháng.”

Rachel dùng lòng bàn tay vuốt phẳng nếp váy. “Anh càng phản đối tôi lại càng thấy anh biết rõ nếu tôi đến đó thì sẽ làm lộ tẩy câu chuyện của anh chỉ là ảo giác.”

Cơn giận tràn qua người tôi. “Thôi tôi cũng đành liều để cô đến vậy. Nhưng cô chưa biết nó nguy hiểm như thế nào. Cô có thể chết. Đêm nay.”

“Tôi không nghĩ thế. “

Tôi cầm lấy túi Ziploc có chứa chất bột trắng và chiếc phong bì FedEx đưa cho cô. “Cách đây ít phút tôi nhận được một bức thư do Fielding gửi. Chất bột này ở trong phong bì thư.”

Cô nhún vai. “Trông nó giống như cát. Cái gì thế?”

“Tôi cũng chẳng biết. Tôi sợ rằng nó là bệnh than. Hoặc cái gì đó đã giết Fielding.”

Cô cầm lấy chiếc túi từ tay tôi. Tôi nghĩ trước hết cô phải xem xét chất bột, nhưng cô lại đọc nhãn trên chiếc phong bì FedEx.

“Đây ghi người gửi là Lewis Caroll.”

“Đó là mật hiệu. Fielding không thể liều đưa tên thật của mình vào hệ thống máy tính của FedEx. NSA sẽ chộp được ngay. Ông ấy lấy mật danh là Lewis Caroll bởi ông có biệt danh “Thỏ Trắng”. Cô đã nghe nói rồi phải không?”

Trông Rachel như đang nghĩ lung về chuyện ấy. “Tôi không chắc đã nghe nói. Bức thư đâu rồi?”

Tôi bước ra cửa trước. “Trong cái túi nhựa trên đi văng ấy. Đừng có mở ra.”

Cô cúi xuống đọc nhanh dòng chữ. “Không có chữ ký.”

“Tất nhiên là không. Fielding không biết những ai có thể đọc nó. Ký hiệu con thỏ là chữ ký của ông ấy.”

Cô nhìn tôi đầy ngờ vực. “Cho tôi đi theo, David. Nếu những gì tôi thấy đúng như điều anh nói, từ giờ trở đi tôi sẽ cẩn thận làm theo những lời cảnh báo của anh. Không còn nghi ngờ nữa.”

“Thế chẳng khác nào quẳng cô xuống nước để chứng tỏ có cá mập dưới đó. Lúc cô thấy chúng thì đã quá muộn rồi.”

“Trong các truyện tưởng tượng loại này bao giờ cũng thế.”

Tôi đi lấy chùm chìa khóa trên quầy bếp. Rachel theo sát gót tôi. “Thôi được, cô muốn đến? Lên xe của cô và đi theo tôi.”

Cô lắc đầu. “Không đâu. Anh sẽ bỏ rơi tôi ngay ngã tư đèn đỏ đầu tiên.”

“Đồng nghiệp của cô hẳn phải nói với cô rằng đi cùng một bệnh nhân đang đuổi theo những tưởng tượng hoang đường là nguy hiểm chứ? Đặc biệt là bệnh nhân bị chứng ngủ rũ.”

“Đồng nghiệp của tôi không biết anh. Còn về chứng ngủ rũ, anh còn chưa tự giết mình cơ mà.”

Tôi lần tay xuống dưới đệm sofa, lấy khẩu súng ra, nhét vào cạp quần. “Cả cô cũng chưa biết tôi.”

Cô quan sát cái báng súng, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi nghĩ rằng tôi biết anh. Và tôi muốn giúp anh.”

Nếu cô chỉ là bác sĩ tâm thần của tôi, chắc tôi đã để cô lại đó. Nhưng trong thời gian dài khám bệnh, chúng tôi đã nhận ra điều gì đó ở nhau, một tình cảm không nói nên lời mà hai con người từng trải qua mất mát to lớn chia sẻ với nhau. Dù coi tôi là kẻ có bệnh, cô vẫn chăm sóc tôi trong một thời gian dài theo cách khác hẳn mọi người. Đưa cô đi theo có lẽ là ích kỷ, nhưng sự thật đơn giản là, tôi không muốn đi một mình.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận