“Giáo sư Sử ạ!” Tưởng Lộc nhanh nhẹn bù đắp trong tiếng sủa chói tai của con chihuahua: “Mồm miệng cháu ba lăng nhăng, bác đừng để bụng ạ.”
“Mà trùng hợp quá mình gặp nhau luôn ở đây, đúng là có duyên ạ!”
Ông bác dắt chó đi dạo tên Sử Thế Kỳ, ngoại hình bình thường phổ thông đầu còn hơi hói, về cơ bản người không biết thì không tài nào nhìn ra ông từng là nhạc sĩ lớn vang danh thế giới.
Ông bác Sử có mắt tròn mũi nhỏ, cười lên trông như đang bực, bực lên thì trông như sắp nhai đầu người ta.
Hai cậu trẻ măng một bê đĩa trái cây một cầm chi phiếu, ông cũng không đánh đố gì mà nhấc chân giơ mũi dép lê ẩy nhẹ mông con chihuahua một cái, chú chó lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng lại, chồm lên đùi ông đòi bế.
“Nhà tôi bên kia, đi theo tôi sang.”
Ông vớt con chó lên ôm vào lòng như kiểu ủ tay, ra hiệu cho cả hai theo cùng.
Người thật sự giàu đều sẽ kiểu có đất cắm dùi ở cả trung tâm và ngoại ô thành phố, chỗ ở trung tâm để sở hữu cảnh đêm phồn hoa, ở ngoại ô thì cần vườn hoa bể bơi không khí trong lành.
Tô Trầm hiếm khi tiếp xúc với các ông các bác nhìn thôi đã thấy rén như này, tò tò theo sau Tưởng Lộc, đến cả bước chân cũng thẽ thọt hẳn, trưng ra bộ dạng ngoan ngoãn mà người lớn hay quý theo thói quen.
Người làm căn đúng giờ ra mở cửa cho ông bác Sử Thế Kỳ, đỡ chú chó bế vững rất là lưu loát thành thạo, xong lấy ra hai đôi dép lê cho hai người khách chỉ bằng một tay.
Trong nhà loáng thoáng mùi thuốc nhè nhẹ, dụng cụ có vẻ là cốc giác hơi được sắp trên chiếc xe đẩy nhỏ.
Ông bác giơ tay ra, người làm đưa luôn cái kính mắt gọng vàng.
Giơ tay lần hai, đến lượt khăn mặt nóng.
“Hồi xưa giáo sư Sử là giáo sư gạo cội khoa Sáng tác của Học viện Âm nhạc Thời Đô, từng dạy rất nhiều nhạc sĩ nổi tiếng hiện giờ á,” Ngoài mặt thì Tưởng Lộc đang giới thiệu cho Tô Trầm, nhưng thực ra cũng là để nịnh nọt ông cụ: “nhóc biết Tạ Liễm Quân chứ… đợt mình đi xem concert, cái cậu nhảy nhót lóng ngóng nhưng hát rõ hay ấy, chính là học trò của giáo sư đây.”
Tô Trầm gật gù, đưa mắt ngắm nghía lối bài trí trong phòng khách với vẻ tò mò.
Trông ông bác kiểu trường phái dưỡng sinh uống trà kỷ tử tập bát đoạn cẩm, nhưng bố trí nội thất phòng khách lại tương đối cứng nhắc.
Bốn màn hình dạng cong treo lên cố định thành hình tròn, bàn phím điều khiển dùng trong kết hợp âm thanh 3 tầng màu đen trắng rõ ràng.
Trên chiếc bàn làm việc rộng lớn là rất nhiều thiết bị điện tử chớp nháy sáng tối đặt vòng quanh, cách sắp xếp bộ loa ở nhiều hướng khác nhau trông có vẻ lộn xộn, nhưng thực ra có ý đồ tinh tế riêng của nó.
Phòng khách không có các thứ trang trí phụ thường gặp như tivi bể cá, mà vách tường được dành ra làm nền chiếu phim, trên ấy treo tận mấy trang bản nhạc với nét bút viết ngoáy.
Nhìn xuống dưới còn tia thấy cả các dụng cụ bổ trợ dạng kiểu pedal, tất cả đều là thiết bị chuyên nghiệp hàng đầu.
Trong lúc Tô Trầm quan sát căn phòng thì Sử Thế Kỳ cầm khăn mặt nóng lau tỉ mỉ cẩn thận mặt và ngón tay, đưa trả người làm rồi ngồi xuống chiếc bàn cong, ra hiệu cho cả hai ngồi đối diện phía ngoài.
“Biết nguyên tắc chưa?”
“Biết ạ,” Tưởng Lộc phải nhờ cậy quan hệ mới xếp hàng gặp được ông, vội trả lời: “tính phí theo phút, mỗi phút 100 nghìn tệ.”
Đôi mắt Tô Trầm thoáng trợn to, Tưởng Lộc vỗ về mu bàn tay người yêu tỏ vẻ trấn an là mình đã cân nhắc kĩ lưỡng rồi.
Ông bác lại duỗi tay tại chỗ, gọi: “Lấy đồng hồ ra đây.”
Người làm đáp lời cầm đồng hồ điện tử tính giờ ra, đặt chiếc đồng hồ vuông nhỏ vào giữa mọi người.
Ấn ngón tay, đồng hồ bắt đầu đếm giây từ [00:00].
“Cậu kể kịch bản đi.”
Tưởng Lộc lấy quyển photo kịch bản ra, đang định nói gì thì ông bác lại đưa tay ấn một cái dừng đồng hồ lại.
“Không cần đọc, kể cho tôi, kể bằng ấn tượng của cậu ấy.”
Tưởng Lộc ngớ ra, chần chừ nói: “Cháu sợ để sót mất gì đó, trình bày chưa được toàn diện ạ.”
“Nếu cậu để sót cái gì thì chứng tỏ nó chưa đủ quan trọng, không đáng để cậu phải nhớ.” Ông bác Sử huơ ngón tay, mở giao diện FM ra rồi nói tiếp: “Không phải nghĩ nhiều đâu, nhớ gì thì cứ kể đó thôi.”
Vốn là Tưởng Lộc đến bàn việc làm ăn mà bây giờ lại thành ra căng thẳng, lần đầu kể hết tổng quát giản lược câu chuyện mất khoảng tầm 5 phút.
Anh chậm rãi kể về cậu giáo viên trung học ấy trông thấy máu của ân sư bắn tóe trước mắt mình thế nào, rạp người lê lết băng qua khu vực phong tỏa đùng đoàng pháo súng ra sao, ông bác thì đeo tai nghe một bên viết giai điệu, cứ như một nhà phiên dịch.
Các tầng âm thanh từ các nhạc cụ khác nhau biến thành những đường thẳng dài ngắn tựa dấu gạch nối, khiến ta liên tưởng tới một dạng khác của kí tự nhị phân.
Trên màn hình, mọi thành phần âm thanh chỉ là những đoạn thẳng với độ dài độ dày đa dạng, được sửa đổi điều chỉnh theo lời kể của Tưởng Lộc.
Chờ kể xong các nét chính câu chuyện, dần định hình được tâm trạng và giai điệu cơ bản, ông bác tẩy xóa chỉnh sửa một hồi rồi bất thình lình hỏi: “Nhiệt độ lạnh hay là nóng?”
Tưởng Lộc ngớ người mất mấy giây, trái lại Tô Trầm đáp ngay lập tức không cần nghĩ ngợi: “Tìm nóng trong cái cực lạnh ạ.”
Ông bác hiểu ý cho thêm một loạt thanh nữa, tiếp tục nói đúng theo kiểu đang đứng bếp xào nấu hỏi xem muốn độ chín bằng nào: “Phần lớn thời lượng sẽ là mùa nào?”
“Thu đông ạ.”
“Tâm trạng nỗi lòng sẽ thế nào?”
“Là ấp ủ mạng sống của cậu ấy và ân sư, vượt qua đường hầm dài chật hẹp âm u, cố gắng tìm kiếm ánh sáng từ bầu trời ạ.”
“Trạng thái tính cách có biến đổi không?”
“Có 3 giai đoạn ạ.”
“Cậu nói đi, tôi viết.”
Sau đấy Tưởng Lộc chả còn việc gì nữa.
Càng lúc câu hỏi của ông bác càng quái lạ, dần dà còn chẳng có logic gì sất, hỏi màu trời của một cảnh ngẫu nhiên nào đó, hỏi lúc tình tiết đẩy lên cao trào thì nhân vật chính muốn khóc hơn hay muốn cười hơn.
Hỏi về cảm xúc, trừu tượng, về trải nghiệm tinh thần, toàn bộ đều do Tô Trầm phụ trách trả lời.
Cậu mới đọc kịch bản tổng cộng có hai lần nhưng dường như đã có thể đối đáp trôi chảy bất cứ ý gì, đến cả lời thoại cậu cũng nhớ làu làu chuẩn xác.
Trước hàng loạt hàng đống câu hỏi Tưởng Lộc chỉ trả lời được mấy câu nhỏ nhỏ cụ thể, lượng hóa thôi.
Viết xong đến câu hỏi cuối cùng, ông bác nhấn dừng đồng hồ bấm giờ rồi tự châm điếu thuốc, tháo tai nghe ra cho cả hai nghe thử bản nhạc vừa sáng tác.
“Nhạc nền chính, giai điệu phụ biến tấu, ngoài ra có tổng cộng 10 bài cho các bối cảnh tâm trạng khác nhau, các cậu tha hồ chọn nhé.”
Khi tiếng violin vang lên, cảm giác như có tiếng bước chân đang gấp rút tiến về phía trước.
Rõ ràng họ vẫn đang ngồi trong không gian phòng khách bài trí hiện đại, mà giai điệu đã đột ngột cuốn họ vào với khung cảnh.
Trong giờ phút này, có lẽ việc giai điệu ấy hòa quyện từ tiếng đàn piano hay là nhạc cụ nào khác cũng chẳng quan trọng nữa.
Những nốt nhạc trầm bay lượn trầm bổng đang xoay vòng tiến bước, lột tả trọn vẹn từng câu từng chữ Tô Trầm đã mô tả khi nãy.
Ấy là sáng sớm tuyết đổ, một thân một mình đổ máu loạng choạng đi về phía trước.
Là cảnh tượng chiến tranh khói lửa, đám trẻ con hãy cứ vô tư hồn nhiên đuổi bắt chơi đùa.
Là cánh chim vút ngang bầu không, rồi cất tiếng thê thảm gục chết.
Là cái nóng bỏng hừng hực ta bám trụ tín ngưỡng đuổi theo giữa lạnh giá cùng cực, nghe thấy một buổi hoàng hôn giữa ngục tù xiềng xích.
Hoàng hôn của quân phiệt sắp sửa hạ màn, chết rục triệt để theo màu trời.
Sau ấy thế giới hòa bình rực đỏ sẽ tái sinh lần nữa.
Nhân vật chính bị giam trong ngục sâu, chờ đợi gần như si mê.
Vẻ ngoài cậu ta vẫn hệt thuở ban đầu, đeo kính, bước chân lảo đảo, là một người bình thường trông vừa hèn yếu vừa ngu ngốc.
Nhưng cậu ta đã sở hữu lời chúc vĩnh cửu đến từ tín ngưỡng, hi sinh không hối hận.
Tưởng Lộc nghe đến cuối đã xúc động không nói nên lời, chỉ thấy 20 phút vừa rồi không thể đáng tiền hơn, với cả may là mình dẫn Tô trầm theo.
Tầm nhìn của anh chung chung quá, đã quen với tư duy tổng quan của đạo diễn nên trái lại bị mài mòn ở những cảm thụ tinh tế thế này.
Hơn nữa Tô Trầm bây giờ hệt một thanh kiếm đã gỉ sét hai năm, cuối cùng mới tìm được hòn đá mài thích hợp cho lưỡi kiếm.
Trong lúc trao đổi với nhạc sĩ, năng khiếu trời ban tựa như thấu suốt tận linh hồn ở cậu được gọi dậy lần nữa, ngay cả khí thế cũng đang gián tiếp toát ra sự sắc bén vốn phải có của nó.
Sau khi bật hết bản nhạc mẫu mình vừa viết xong, người đầu tiên ông bác nhìn sang không phải Tưởng Lộc mà là Tô Trầm có khả năng thấu hiểu tường tận hơn.
Thái độ cao ngạo trước đó của ông đã dịu hẳn, ông hỏi dò bằng vẻ hiền hòa đến lạ lùng: “Có ổn không?”
Tưởng Lộc định bảo là bác sáng tác hay tuyệt vời luôn ạ, đợt trước cháu đã nhờ đến 5 6 chuyên gia phối khí hàng đầu mà cũng không thể ra được hiệu ứng như thế này.
Song Tô Trầm lên tiếng nhanh hơn anh, lắc đầu đáp:
“Bác quên viết lá cây vào rồi ạ.”
“Ô, đúng nhỉ. Nhiều thứ phải viết quá.” Ông bác xua tay mấy cái, ấn lại đồng hồ bấm giờ, tiếp tục lẩm nhẩm gì đó quay lại sửa bản nhạc vừa nãy.
Lá cây?
Tưởng Lộc sắp mù tịt không hiểu hai người này nói cái ngôn ngữ gì nữa, anh ngồi nép sang một bên đầy cung kính, suy tư nghĩ bụng chẳng lẽ mình là muggle.
Tô Trầm vỗ về mu bàn tay anh trấn an, ý bảo anh cứ yên tâm trả tiền là được.
Tưởng Lộc ghé mắt liếc cậu một cái, loáng thoáng phát hiện thêm chút gì mới mẻ nằm ngoài góc nhìn của Trần Trầm.
Nếu bị nhốt trong buồng tối chật chội, ngựa thiên lý sẽ ốm yếu bệnh tật hơn cả ngựa thường.
Nếu bị cắt mất đôi cánh thì có ở trong cái lồng tốt đến đâu đi nữa, chim sẻ cũng vẫn ủ ê.
Có lẽ việc mấy năm nay tình trạng Tô Trầm cứ suy sụp không ngừng… là mặt trái của tài năng thiên phú dị bẩm.
Năng lực quá mạnh mẽ bị đè nén không có đất thể hiện, có khi sẽ liên tục gây tổn thương ngược lại cho chính bản thân cậu.
Ấy cũng là nỗi bất hạnh từ rất nhiều may mắn tích tụ mà ra.
Với tình hình lượng thông tin cả cuộc gặp đều bùng nổ vượt mức thế mà đồng hồ đếm giờ mới chỉ đến mốc [17:39], nhanh tới khó tin.
Hình như Tô Trầm lại quay về trạng thái ngẩn ngơ, ánh mắt cậu chăm chú vào một điểm nào đó, cậu ngây người rất lâu rồi bỗng dưng bật lên ngồi thẳng dậy.
“Tưởng Lộc.”
Tưởng Lộc đáp lời bằng ánh mắt trìu mến của một muggle.
“Em cảm giác về sau lúc ở trong tù cậu ta không nhìn được nữa.” Tô Trầm nói rất nhanh: “Cả hai mắt đều không thấy gì nữa.”
Sử Thế Kỳ gõ đốt ngón tay lên mặt bàn, tỏ ý tán đồng sâu sắc.
“Phải vậy mới đúng, không thì sao lại đặt tên là Người nghe hoàng hôn? Vì không nhìn được mà.”
Phải sau khi cậu ta chết thì kẻ xâm lược mới bại trận, rồi cả toàn bộ màn báo thù mạnh mẽ sắp đặt liên hoàn cũng chỉ xảy ra sau khi cậu ta chết.
Bạch Tố Ương sống được vẻn vẹn có 35 năm, không cầm cự nổi đến lúc tận mắt chứng kiến tất thảy.
Nhưng cậu không chỉ thực hiện được lời giao phó của ân sư, mà còn hoàn thành tất cả trên chiến trường tình báo đầy xuất quỷ nhập thần nhờ tư duy khoa học, mãi cho đến khi bị bắt giam trong nhà tù tăm tối không một tia sáng, lắng nghe một buổi hoàng hôn nhờ tiếng gió thoảng nhè nhẹ.
Khoảnh khắc cảm thụ được những thông tin ấy, Tô Trầm nhìn sang Tưởng Lộc bằng ánh mắt rực sáng, chờ đợi quyết định cuối cùng từ anh.
Tưởng Lộc nghĩ ngợi rồi gật đầu: “Thị lực hai mắt thoái hóa khi ở trong bóng tối lâu ngày cũng hợp lí, nhưng rốt cuộc Bạch Tố Ương có mù hẳn không thì anh phải về họp với nhóm biên kịch đã rồi mới quyết được.”
Ông bác Sử cũng phóng khoáng, vuốt vuốt lướt lướt sửa thêm ra một đoạn cho hai người nghe.
Giai điệu lúc đầu rõ nét mượt mà, nhưng sau khi chỉnh lại, có mấy nốt đã được cố tình xử lý cho ù hơn nhòe hơn, như những con chữ mờ nhòa loang ra vì nước mắt ẩn giấu giữa các câu văn.
Chỉ sửa đổi tí xíu có vẻn vẹn vài chỗ mà bỗng điệu nhạc được phủ lên cả màn sương mờ lạnh giá đêm khuya, tựa một người mù đang mò mẫm cảm nhận sự biến chuyển của thế giới.
“Đoạn này cậu cứ giữ lại, nếu định viết cho mù hẳn thì dùng để thể hiện quãng thời gian trong tù là vừa đẹp luôn.”
Ông bác gõ chiếc đồng hồ đếm giờ một cái, kết thúc công việc đầy mãn nguyện.
“20 phút 5 giây, trừ số lẻ cho cậu, thu phí 2 triệu, cậu quẹt thẻ chuyển khoản hay viết chi phiếu đây?”
Tưởng Lộc cuống quít thanh toán, ông bác nhận thù lao xong gọi người làm lấy hộ mình cốc sữa nóng.
“File thu âm hoàn chỉnh sẽ gửi vào email cậu đăng kí trong vòng 3 ngày, có bất cứ vấn đề gì cứ việc liên lạc, cảm ơn hai cậu.”
Tô Trầm cười híp mắt gật đầu, hôm nay đi chơi thật là vui.
– 2-
Đội biên kịch thảo luận tái hồi, quyết định sửa phần nội dung cầm tù ở nửa sau phim, cực kì cảm kích trước đề xuất mới này.
Còn hành trình xây đắp thế giới mới chỉ vừa bắt đầu mà thôi.
Sử Thế Kỳ chỉ mới viết bản nhạc, việc thu âm thành bài hoàn chỉnh cần giao cho dàn nhạc giao hưởng quốc tế rồi mới chuyền về để công ty hậu kì thực hiện điều chỉnh hoàn thiện sau cùng.
Tô Trầm đang định ở nhà tập trung nghiên cứu kịch bản mấy hôm, thì lại bị Tưởng Lộc mang cho một hộp khẩu trang N95 bảo phải dẫn cậu đi xem chỗ này.
Hai người chuyển từ ô tô sang máy bay, rồi từ máy bay sang ô tô, vòng và vòng vèo mãi mới tới ngoại ô thành phố Bành Sơn, đứng trước mảnh đất 200 mẫu anh thuê.
Lúc trông thấy cánh cửa chính bằng thép quen thuộc, Tô Trầm quay ngoắt đầu sang nhìn chằm chằm Tưởng Lộc.
“Đúng đó.” Trông Tưởng Lộc rõ điềm đạm nhưng thực ra anh cũng rất run: “Lại có một căn cứ nữa, không to bằng cái trước nhưng cũng đủ dùng.”
Giọng điệu nhẹ tênh như đang tuyên bố, mình lại có một thế giới mới rồi này.
Cửa chính chậm rãi hé mở, Tưởng Lộc hơi ngần ngừ, quay sang nhìn Tô trầm.
“Cơ mà… nhiều cái chưa xây xong lắm, nhóc đừng chê nhé.”
Tô Trầm mỉm cười: “Anh đáng yêu ghê.”
“Có ai khen bạn trai kiểu thế không,” Tưởng Lộc ra vẻ giận dỗi oán trách một câu, đạp chân ga tiến vào.
Tổng 200 mẫu đất được ngăn ra chia thành 4 khu vực, con phố phía nam nơi vai chính sống chiếm 1/5, vùng chiến tranh chiếm 1/5, thành Bắc chiếm 2/5, các bối cảnh còn lại đều được gom hết vào một khu.
Anh thong thả lái xe đưa Tô Trầm đi vòng quanh ngắm nghía, bắt đầu giới thiệu từ ý tưởng sơ khai nhất của mình.
Thành Nam và thành Bắc cần có điểm khác biệt nổi bật, không chỉ thể hiện ở góc nhìn bao quát dạng như biển hiệu cửa hàng, độ rộng hẹp của đường phố, mà còn ở những mảnh ghép như dòng người qua lại, chất liệu của đường đất đỏ hay thềm đá xanh.
Nhờ sự khắc họa kì công của chuyên gia mĩ thuật, việc thiết kế nghệ thuật hóa cho hai địa điểm đều được tiến hành tỉ mỉ nhất có thể, từ hình thái uốn lượn khép mở của bản thân đường phố cho đến từng nét bút tiểu tiết của rêu xanh hay bùn xám.
Tưởng Lộc đã nhấn mạnh, phố xá thành thị trong ống kính của anh đều phải sống.
Giống kiểu người đang sống sờ sờ ấy, sẽ hít thở, sẽ đổi thay phập phù, chứ không chỉ đơn thuần là một cảnh nền tẻ ngắt dàn ra sau lưng vai chính.
Ông cụ gánh hàng rong sẽ thong dong tìm bóng cây ngồi nghỉ chân, người phụ nữ mặc cả thất bại sẽ kéo đứa con đi về đằng xa không buồn ngoái đầu lại.
Phía trên cao là những chiếc sào phơi quần áo kín đặc len lỏi, treo những ga giường và váy quần kiểu cũ, sẽ có cả bà bác cầm cái đập vừa phủi bụi vừa ho sặc sụa.
Mùa đông thì sẽ có người run cầm cập xoa tay hơ lò sưởi trước cửa tiệm may, những dây thường xuân bám nửa vách tường sẽ héo khô rồi lại mọc ra xanh tốt.
Ở thành Bắc thì khung cảnh sẽ khác hẳn.
Có lạc đà đeo chuông đang chậm chạp nhai cỏ khô, cô gái xinh đẹp đứng ngoài cửa tiệm hút thuốc phiện cười yêu kiều mời khách.
Gió cát dữ dội quá, bụi mù khiến người đi đường hoa cả mắt, phải nâng tay áo che mặt vội vàng bước thật nhanh.
Nhà giết mổ thì đứng ngay bên đường vẩy đầy một chậu cả máu lẫn nước, váng dầu tung tóe loang ra đầy đất.
Dọc đường đi đều thấy có nhân viên công tác đang huấn luyện cho diễn viên quần chúng, chỉ bảo rất là kĩ lưỡng cẩn thận.
Tô Trầm trông theo không cả dời mắt, nụ cười cứ thường trực mãi.
“Hôm nay đến để xem chất vải phục trang,” Tưởng Lộc đỗ xe, dẫn cậu vào khu nhà thấp tầng của tổ đạo cụ: “anh chưa chắc lắm nên cũng muốn để nhóc kiểm tra thử.”
Trong số chuyên gia trang phục có cả cộng sự cũ từ hổi “Đêm Trùng Quang”, lúc trông thấy Tô Trầm mới gật đầu chào hỏi nhau rất thân quen, bê khay ra cho hai người xem màu sắc thành phẩm mới.
Quần áo của vai chính đều được cố tình làm cho cũ đi, phương pháp nhuộm và kĩ thuật khâu thêu cố gắng bám sát niên đại khi ấy nhất có thể.
Tô Trầm thay thử vài bộ ở đây luôn, ngắm nghía hồi lâu trước gương rồi lắc đầu.
Cộng sự thốt lên kêu ui, có vẻ tự trách.
“Có phải tại máy mới quá không, phải dùng máy khâu cũ mới đúng?”
“Không phải đâu,” Tô Trầm cúi đầu sờ chất vải áo bông cùng chất da lông mềm mịn của chiếc mũ lông: “cảm giác không đúng lắm.”
Tưởng Lộc nảy ra suy nghĩ, kéo ghế lại ngồi xuống.
“Hồi trước có một tiền bối lão luyện trong ngành làm phim điện ảnh, những diễn viên đóng vai nghèo khổ đều phải nhịn đói thật để quay, quay hết xong mới bảo với biên kịch là không ổn, nhiều thoại quá đi mất, đói chết đi được còn chẳng muốn nói gì nữa là.”
“Biên kịch này mới vỗ đầu bảo, ui cha, tại tôi viết lúc đang no.”
“Liệu có phải chỗ quần áo của mình cũng gặp vấn đề giống thế không?”
Ý tưởng bật ra, Tưởng Lộc gọi luôn biên kịch cầm theo tư liệu tham khảo sang, bảo chuyên gia trang phục cứ ngồi đó uống trà tạm trước đã.
“Tính lại từ đầu, tính xem một năm Bạch Tố Ương nhận lương bao nhiêu, có bao nhiêu để mua quần áo.”
Dựa theo thu nhập của giáo viên ở thời dân quốc, tìm tiếp cái kho lạnh mặc đồ đứng vào đấy thử nghiệm hiệu quả, lượn lờ giày vò nhau mấy lượt xong mới hiểu ra vấn đề nằm ở đâu.
Chuyên viên trang phục tròn mắt cứng lưỡi nhìn theo mấy biên kịch vừa giở bài nghiên cứu vừa tính toán, tính mãi dần xong ngửa đầu than thở dài thượt: “Căn bản là đào đâu ra tiền mà may quần áo mới ấy chứ!!!”
“Một phần nhỏ là áo chần bông may mới, còn lại chủ yếu là dùng lại quần áo cũ của anh chị em bố mẹ sửa bớt cho vừa người.” Tô Trầm ngẫm nghĩ rất lâu, tìm ra gốc rễ chứng bệnh: “Em hiểu rồi, mấy bộ quần áo này sạch quá.”
“Rất nhiều quần áo ngày xưa đều phải hồ.”
Chuyên gia trang phục vào nghề từ bên làm áo bào phong cách kiếm hiệp thần tiên, nghe thấy từ này ngớ ra mất một lúc: “Hồ là như nào cơ?”
Biên kịch oa một tiếng thật dài, tìm ảnh cũ từ xấp tư liệu ra cho mọi người xem: “Mọi người trông này, quần áo hồi xưa cứ cứng đờ thẳng tắp ra ấy, là vì phải nhúng đun trong dung dịch hồ từ tinh bột hoặc nước gạo.”
Theo thẩm mỹ hiện đại thì quần áo phải phẳng phiu là lượt, chỉ có trang phục kiểu Tây ví dụ như vest mới chú trọng cái đường nét thẳng tắp ở các nơi như eo, vai.
Nhưng áo bào dài thời xưa thì đều giặt hồ một lượt, trông sẽ đặc biệt… cứng.
Sau khi nước hồ tinh bột ngấm vào quần áo thì màu trắng sẽ trắng hơn, màu đỏ mận sẽ thẫm hơn, phơi khô xong chất vải sẽ thẳng đơ, giòn cứng, đem lại cảm giác khác biệt hoàn toàn so với bây giờ.
Mọi người bàn luận một lượt, chốt sẽ ra ngay căng tin hỏi mượn nồi của bác đầu bếp.
Bác bếp chính còn đang rán bánh dở, nghe xong không hiểu mô tê gì.
“Mấy đứa mượn nồi với bếp của bác á? Để luộc quần áo??”
Mấy biên kịch vẫn còn đang lẩm nhẩm chi li: “Làm bằng hồ tinh bột thì hơn hay là dùng nước vo gạo nhỉ?”
“Nhà nam chính nghèo lắm, mua làm sao được bột.”
“Thế thành quả phải kiểu có hồ rồi nhưng chưa được đủ độ toàn bộ?”
Tô Trầm đứng một bên xem, vừa tò mò xúm vào theo dõi quá trình hồ quần áo bằng nước vo gạo, vừa hồi tưởng lại những gì Tưởng Lộc kể lúc nãy.
Diễn viên phải đói thì mới biết là lời thoại biên kịch viết trong lúc no bất hợp lí ở đâu.
Bây giờ cậu đang sống cuộc sống cơm no áo ấm, chưa chắc đã diễn tốt được vai một thầy giáo nghèo.
“Tưởng Lộc.”
“Ới?”
“Em muốn tìm chỗ nào đó đi dạy học tình nguyện ở lại mấy tháng, không mang theo tiền.”
Tưởng Lộc ngây ngẩn, đáp quả quyết: “Anh dẫn thêm hai biên kịch đi cùng với nhóc.”
Mấy biên kịch mới vừa rồi còn đang hớn hở phấn khởi túm tụm cạnh cái nồi to hồ quần áo, nghe thấy câu này cái mặt trắng bệch luôn.
“Về quê á?”
“Lên núi ạ??”
Đạo diễn Tưởng!! Định làm phép biến hình thì thôi ạ!!
Tưởng Lộc ngoái lại ngó hội này một cái, nói bâng quơ tỉnh bơ: “Có 2 suất thôi, gấp 3 lương, ai đi không nào?”
“Em xả thân bất chấp!!”
“Đạo diễn Tưởng trông chị này!! Kĩ năng sinh tồn của chị đỉnh chóp đấy!!”
Câu chuyện không diễn ra ở nông thôn.
Cả nhóm tìm một huyện thị hẻo lánh thuộc một tỉnh phía Tây Nam, thỏa thuận với người móc nối liên hệ, khoản trợ cấp cho mỗi người giảm xuống còn vài trăm tệ một tháng.
Tuy giờ đã là năm 2016, thoạt nhìn thì tưởng khắp nơi trong nước đều đã đầy đủ tín hiệu, sinh hoạt thuận lợi, nhưng nếu tìm kĩ thì vẫn sẽ gặp những chỗ còn chỉ chuyển phát nhanh được qua EMS.
Ở huyện Tiềm Chương không có đồ ăn giao tận nhà, chẳng có mấy hoạt động giải trí, thậm chí không khí còn từng bị ảnh hưởng ô nhiễm bởi ngành công nghiệp nặng gần đó, 12 giờ trưa mà trời vẫn cứ mang cái màu xanh xám tối mù lãng đãng.
Đừng bảo cắm cọc mấy tháng, kể cả chỉ ở vài hôm thôi cũng đủ cảm nhận được bầu không khí tích tụ nơi đây rồi.
Tại đây, sự thay đổi thần tốc của thế giới đều bị ngăn cách triệt để.
Ở đây chẳng thấy những địa điểm như rạp chiếu phim, cao ốc trung tâm thương mại hay công viên giải trí, phòng chơi game vẫn giữ nguyên hình hài từ những năm 90, mọi người thích qua quán mạt chược đánh đã đời hơn.
Đường phố đều chật hẹp, ô tô qua lại lẫn với những xe van và xe ba bánh, thậm chí thỉnh thoảng còn gặp ông cụ nhà nông đánh xe bò đi ngang.
Hôm đầu tiên có mặt, 4 người tìm một nhà nghỉ thuê phòng ở, mới thấy chỗ gỉ sắt loang lổ màu đỏ nâu trong bồn tắm với cái ga giường mỏng dính lốm đốm vết ố trong phòng thôi là đã muốn xông ra ngoài bỏ chạy theo bản năng rồi.
—— Phải làm tới nước này thật ư.
—— Hay là thôi ở lại một tuần thôi?
Lúc đặt hành lý xuống Tưởng Lộc làm con nhện trên xó tường bị giật mình, dấu cảm thán chợt bật ra trên đầu anh.
“Có phải nhà cửa ngày xưa sẽ có côn trùng không nhỉ?”
“Chắc ít nhiều gì cũng phải có,” Tô Trầm sắp xếp các đồ dùng cá nhân: “nên anh nhớ phải làm thêm mấy cái kiểu mạng nhện ở trường quay ý.”
“Anh ghi lại ngay đây.”
Đúng ra trên nguyên tắc thì muốn đi dạy ở trường trung học, bắt buộc phải có mấy thứ bằng cấp chứng chỉ dạng xác nhận tư cách giáo viên.
Nhưng họ hỏi thăm qua nhiều bên, hiện giờ những ai có điều kiện một tí thì đều đã chuyển ra các quận huyện phát triển hơn để học, các huyện nhỏ rất thiếu giáo viên, thầy cô đều làm quen với việc một mình kiêm nhiều vai, phải quản lý đồng thời học sinh của cả mấy lớp.
Tưởng Lộc nhờ người quen hỗ trợ liên lạc trao đổi, nghe bảo nhóm này từ đại học nổi tiếng về dạy học tình nguyện xong còn tự lo chi phí ăn ở đi lại, không cần trả lương, hiệu trưởng đồng ý ngay và luôn.
Hai biên kịch chọn dạy ngữ văn và tiếng Anh, hai người họ thì phục trách dạy toán và vật lí.
Hiện đang là tầm lạnh nhất, tháng 1 gió rét thét gào, vừa cóng vừa ẩm, buổi tối vật vã quá thực sự không chợp mắt nổi.
Điều hòa ở nhà nghỉ thì không khác gì một bệnh nhân già viêm phổi quanh năm ngày tháng, bật lên cái là có chất lỏng màu sắc kì dị chảy ra nhỏ tong tỏng.
Đêm đầu tiên Tô Trầm đang ngủ thì bừng tỉnh vì lạnh, thế là cậu phải lấy hết áo bông áo phao lông vũ trong vali ra bọc kín người vào như cái bánh ú, mới miễn cưỡng chập chờn hết khuya, hôm sau đã bị cảm đỏ ửng chóp mũi.
Hai người đều kiểu tới đây chỉ chuyên để ghi chép, tiếp tục rúc vào nhau cùng ngẫm nghĩ.
Ngày xưa cái thời ấy mọi người đều đầy đủ dinh dưỡng, khỏe mạnh sáng sủa ư?
Có vẻ là không đâu.
Thiếu thốn vật tư, cuộc sống đạm bạc, bị ốm là chuyện thường ngày ở huyện.
Hình ảnh Bạch Tố Ưng dần dà trở nên chân thật.
Cậu ta không thể nào tươi sáng chói lóa được, có khi tư thế đứng còn chả thẳng nữa là.
Mùa đông trời lạnh quá, lạnh tới nỗi người ta cứ phải gồng người gù lưng mà đi.
Tay cũng lạnh, gió quét qua đến vành tai cũng đau rát.
Có những đợt bị cảm lâu quá, là sẽ ho mãn tính luôn.
Tô Trầm đã luyện ballet mấy năm liền, nay phải học lại từ đầu tư thế còng lưng rúc ngực, Tưởng Lộc trông mà thầm xót xa trong lòng.
Đúng là sỉ vả mà…
Tô Trầm cân nhắc mường tượng đi thử mấy bước ở nhà nghỉ, trông thấy rõ ánh mắt Tưởng Lộc đang nhìn mình, có vẻ cũng đã phát hiện tâm trạng mặt trái của đối phương.
“Chồng chồng nghèo khó khổ trăm bề,” Tưởng Lộc cầm bình nước tiếp thêm trà nóng vào cốc cho cậu: “vất vả cho nhóc phải lặn lội theo anh.”
Tô Trầm đỡ lấy cốc, thì thầm: “Đạo diễn Tưởng, anh tiếp xúc gần với diễn viên thế này, không sợ scandal à.”
“Cấm nói linh tinh,” Tưởng Lộc xáp lại gần thơm cậu một cái thật kêu, xong lại nghiêm mặt bảo: “bạn trai anh mà nghe thấy là làm ầm lên bây giờ đấy.”