Kiếm Hiệp Tình

Chương 2: Thập Đại Môn Phái


“Em có thể ngồi.” – Người thầy dùng giọng nhẹ nhàng.

Khi cô gái học sinh đã ngồi xuống, người thầy nhìn cả lớp, nhếch miệng: “Hôm nay là tháng hai.” – Người thầy nhấn giọng ở hai chữ cuối, rồi khẽ dừng một chút tạo tâm lý hồi hộp cho học sinh, tiếp theo lại đưa ra kết quả bất ngờ: “Mười lăm cộng hai bằng mười bảy, mười lăm nhân hai bằng ba mươi. Em học sinh có số thứ tự thứ mười bảy lên bảng trả bài, em học sinh có số thứ tự thứ ba mươi chuẩn bị sẵn sàng tiếp theo.”

Phía dưới lớp, khi người thầy vừa dứt lời, có một học sinh nam ở bàn thứ hai từ dưới tính lên, dãy giữa, khẽ thở phào. Cũng ngay vào lúc này, một học sinh nữ hơi mũm mĩm – ngồi ở bàn trên bàn người nam sinh thở phào kia – đứng dậy, thưa rằng: “Thưa thầy, em là Lạc Mộc Vận, là học sinh có số thứ tự thứ mười bảy.”

Cô nữ sinh có tên Lạc Mộc Vận nói xong liền nhấc chân đi ra hành lang giữa dãy giữa và dãy bên phải, đi lên gần bàn giáo viên.

Đến khi Lạc Mộc Vận đã đến vị trí trả bài, người thầy nhìn cô, hỏi một câu hỏi cơ bản: “Em hãy cho thầy biết vạn vật trên thế giới này có bao nhiêu loại thuộc tính?”

“Thưa thầy, vạn vật trên thế giới này có hai loại thuộc tính cơ bản là Không thuộc tính và Thuộc tính. Thuộc tính có năm loại là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.” – Lạc Mộc Vận đáp. Nói tới đây, Lạc Mộc Vận dừng lại khoảng mười giây, về sau giống như cảm câu trả lời của mình còn chưa phải chính xác nhất, Lạc Mộc Vận bổ cứu: “Nói chính xác thì vạn vật trên thế giới này có sáu loại thuộc tính là Không, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.”

Nhận ra cô gái có chút hồi hộp, người thầy không hề bắt bẻ, ông gật đầu chấp nhận câu trả lời của người nữ sinh, rồi khoảng vài giây sau lại hỏi tiếp câu thứ hai: “Chúng ta đều biết thế giới này là hài hòa và công bằng, có được thì có mất, có cho đi mới có nhận lại, có trả giá mới có lợi ích.” – Nói tới đây, người thầy dừng lại khoảng năm giây để nữ sinh Lạc Mộc Vận có thời gian tiếp thu, tiếp theo mới đặt câu hỏi: “Em hãy áp dụng cái quy luật công bằng cho sáu loại thuộc tính của vạn vật.”

Lạc Mộc Vận cúi đầu trầm ngâm chừng bốn mươi giây, cân nhắc và sắp xếp ý tưởng, cuối cùng mới ngẩng đầu lên, trả lời:

“Thưa thầy, em xin trả lời như sau:

Trước tiên chúng ta xét về hai nhóm thuộc tính cơ bản nhất là Không thuộc tính và Thuộc tính. Những người mang trong mình một trong năm loại thuộc tính ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều luyện ra được thứ nội lực đặc thù của riêng mỗi loại, nhưng chúng giống nhau một điểm là thứ nội lực đặc thù này đều có uy lực, sức sát thương, độ phá hoại cao hơn thứ nội lực do những người Không thuộc tính tu luyện ra. Theo nghiên cứu của các thế hệ đi trước, của nhiều nhà khoa học: “Khi cùng đánh vào một vật, nếu nội lực của người Không thuộc tính có sức phá hoại khoảng 1, thì nội lực của người có thuộc tính ngũ hành là từ 10 đến 15.” Bởi vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra người có thuộc tính ngũ hành có ưu thế về uy lực, sức sát thương và độ phá hoại của đòn võ công so với người có thuộc tính Không.

Ở chiều hướng khác, nội lực của người có thuộc tính Không mang tính bao dung hơn so với nội lực của người có thuộc tính ngũ hành. Lấy ví dụ như người có thuộc tính Không dùng nội lực trồng ra Lúa mì, tất cả vạn vật đều có thể sử dụng loại Lúa mì này. Thế nhưng nếu người có thuộc tính Hỏa dùng nội lực trồng ra Lúa mì, loại Lúa mì này chỉ có người có thuộc tính Hỏa và người có thuộc tính Thổ là có thể sử dụng.

Thứ hai, xét riêng ở trong năm thuộc tính ngũ hành. Ngũ hành tương sinh tương khắc. Trong tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Kim khắc Mộc có nghĩa là đòn võ công của người có nội lực thuộc tính Kim tạo ra uy lực, sức sát thương và độ phá hoại rất lớn đối với người có nội lực thuộc tính Mộc. Kim khắc Mộc, nhưng Kim cũng bị Hỏa khắc, vì thế đòn võ công của người có nội lực thuộc tính Hỏa sẽ mang theo uy lực, sức sát thương và độ phá hoại rất lớn cho người có nội lực thuộc tính Kim. Các trường hợp khác tương tự.

Vì những lý do ấy, vạn vật trên thế gian này đều tuân theo quy luật công bằng.”

“Dẫn chứng rất tốt.” – Người thầy khen, rồi đặt tiếp câu hỏi: “Hiện nay, trong Nhân loại có mười môn phái lớn được mọi người công nhận. Thứ nhất, em hãy phân loại và kể tên mười môn phái lớn ấy theo cách phân loại thuộc tính. Thứ hai, theo em thì tại sao trong Nhân loại chỉ có mười môn phái lớn, mà không phải tám, chín, mười một, mười ba?”

Lần này, Lạc Mộc Vận trầm tư dài hơn ở câu hỏi thứ hai. Cô gái tốn thời gian suy nghĩ cho vế thứ hai trong câu hỏi thứ ba, bởi nó khó hơn hẳn so với vế đầu tiên là chỉ phân loại và kể tên mười môn phái lớn. Mất khoảng ba phút, Lạc Mộc Vận mới dám đưa ra câu trả lời:

“Dạ thưa thầy, vấn đề thứ nhất, trong Nhân loại có mười môn phái lớn là: Thiên Quân Phái, Truy Thiên Phái, Thiên Thủ Các, U Minh Môn, Hoa Tiên Môn, Phổ Độ Phái, Phi Long Môn, Tác Mãn Lâu, Chân Nhân Đạo Phái và Tiên Phù Môn. Nếu phân chia theo thuộc tính: Thiên Quân Phái và Truy Thiên Phái là hai môn phái tu luyện nội lực thuộc tính Kim, Thiên Thủ Các và U Minh Môn là thuộc tính Mộc, Hoa Tiên Môn và Phổ Độ Phái là thuộc tính Thủy, Phi Long Môn và Tác Mãn Lâu là thuộc tính Hỏa, Chân Nhân Đạo Phái và Tiên Phù Môn là thuộc tính Thổ.

Về vấn đề thứ hai, muốn trả lời cho câu hỏi vì sao trong Nhân loại chỉ có mười môn phái lớn mà không phải là con số khác, chúng ta cần phải hiểu lý do mọi người cho rằng một môn phái là môn phái lớn, chứ không phải là môn phái vừa, hay là môn phái nhỏ. Muốn hiểu lý do này, chúng ta cần phải quay ngược về lúc con người bắt đầu tu luyện, rồi xét dần lên theo thời gian để tìm câu trả lời.

Từ khi Nhân loại bước lên con đường tu luyện, Nhân loại bắt đầu làm quen mới những loại thuộc tính cơ bản trong cơ thể, xây dựng thành lý luận. Sau khi xây dựng thành lý luận, con người bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu các loại thuộc tính. Khi đã tìm hiểu và nghiên cứu rõ ràng, con người bắt đầu vận dụng và khai phá các thuộc tính. Không lâu sau, bắt đầu xuất hiện các môn phái, nơi mà có nhiều người tụ tập với mục đích để trao đổi cách vận dụng và cùng nhau chung sức khai phá thuộc tính chung của mỗi cá nhân. Họ cùng nhau chia sẻ và cố gắng, từ từ xây dựng ra kỹ năng võ công riêng lẻ, rồi hình thành một hệ thống võ công đặc thù của môn phái mình.

Thuở ban đầu ấy, Nhân loại không có sự phân biệt rõ ràng về môn phái nhỏ, vừa, hay lớn. Thời gian cứ dần qua, sự nghiên cứu, khai phá và xây dựng hệ thống võ công của mỗi môn phải bắt đầu xuất hiện sự chênh lệch. Trải qua nhiều cuộc va chạm, tranh đấu, rồi từ đó rút ra kinh nghiệm để vận dụng và khai phá, sự chênh lệch bộc lộ mỗi lúc một rõ ràng, và theo thời gian cứ trở nên to lớn hơn. Mãi cho đến năm mươi bảy năm trước, trong lúc trải qua cuộc chiến Anto, sự chênh lệch giữa các môn phái trở thành cách biệt khó vượt qua. Và rồi sau cuộc chiến Anto, sự chênh lệch đã được mọi người công nhận. Từ đó mười môn phái lớn mới xuất hiện trong mắt mọi người, được mọi người tôn sùng và hoàn toàn nhất trí, họ được gọi chung là: Thập Đại Môn Phái.

Đến đây, chúng ta dễ dàng biết được lý do cho sự phân loại ấy là do sự vận dụng cách sử dụng nội lực mang thuộc tính, sự khai phá thuộc tính đặc trưng của mỗi môn phái, và hệ thống võ công của các môn phái. Mười môn phái kể trên được xem là lớn, bởi vì họ đang là những người giỏi nhất ở cả ba yếu tố đó.

Để có thể là nhóm người giỏi nhất ở cả ba yếu tố đó, chắc chắn họ đã phải dày công nghiên cứu, bỏ nhiều công sức kiểm nghiệm và phát triển. Họ không thể nào chỉ ngồi không, ăn chơi là có thể làm tốt hơn người khác. Nói thật chính xác, Thập Đại Môn Phái là những người cố gắng nhất, chấp nhận trả cái giá lớn nhất, cho nên họ là những người giỏi nhất, mạnh nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật công bằng.”

“Suy luận rất tốt, dòng suy luận chính xác, có lô-gic vững vàng. Rất tốt.” – Người thầy rất hài lòng với câu trả lời của Lạc Mộc Vận.

Hài lòng với ba câu trả lời của cô gái, song ông thầy không dừng lại theo quy định, mà suy tư để chọn câu hỏi phù hợp, sau đó hỏi Lạc Mộc Vận thêm một câu hỏi nữa: “Trong sáu loại thuộc tính là Không, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trừ thuộc tính Không ra, một loại bất kỳ trong năm loại thuộc tính ngũ hành có sự phân chia về độ mạnh yếu của thuộc tính theo thứ tự là: Phàm, Nhân, Thượng. Ví dụ như Phàm Mộc, Nhân Mộc, Thượng Mộc, Phàm Hỏa, Nhân Hỏa, Thượng Hỏa, vân vân… Phàm là chỉ thuộc tính ấy chỉ ở độ yếu ớt, mỏng manh. Nhân là chỉ thuộc tính ấy ở độ tầm vừa, đã có độ mạnh nhất định. Và Thượng là chỉ loại thuộc tính ấy ở mức độ lớn, đã đủ độ mạnh mẽ quy định. Tốc độ tu luyện giảm dần theo thứ tự là Phàm, Nhân, Thượng. Nhưng sức sát thương, độ phá hoại của cùng một kỹ năng tấn công, cùng số lượng nội lực tối đa đưa vào kỹ năng tấn công ấy lại giảm dần theo thứ tự ngược lại là Thượng, Nhân, Phàm. Đây là vì sao?”

Có lẽ Lạc Mộc Vận từng tìm hiểu về vấn đề này, cô gái không suy nghĩ nhiều, nhanh chóng đưa ra câu trả lời:

“Thưa thầy, chúng ta hấp thu Linh khí của đất trời để tu luyện. Đầu tiên, chúng ta dựa theo cách thức vận công, hấp thụ Linh khí vào cơ thể. Sau đó chúng ta dùng Linh khí hoà tan thuộc tính trời sinh trong các huyệt đạo trong cơ thể, tạo thành nội lực. Theo quy luật đó, hiển nhiên người có thuộc tính trời sinh càng mỏng manh thì việc dùng Linh khí hòa tan thuộc tính trời sinh trong huyệt đạo sẽ nhanh nhất, tốc độ tạo ra nội lực cũng là nhanh nhất. Nên thứ tự tu luyện giảm dần sẽ là Phàm, Nhân, Thượng.

Sức sát thương, độ phá hoại của kỹ năng tấn công được quyết định bởi số lượng nội lực đưa vào kỹ năng tấn công,và mật độ bao trùm của thuộc tính lên đòn tấn công. Khi cùng là một kỹ năng tấn công, cùng là số lượng nội lực tối đa đưa vào kỹ năng tấn công, thì sức sát thương, độ phá hoại của kỹ năng tấn công được quyết định bởi mật độ bao trùm của thuộc tính lên đòn tấn công. Rất dễ dàng thấy được Phàm có thuộc tính thuộc loại mật độ mỏng manh nhất, vì thế mà sức sát thương, độ phá hoại của kỹ năng tấn công của Phàm là yếu nhất. Từ đó suy ra, thứ tự giảm dần trong trường hợp này lần lượt là: Thượng, Nhân, Phàm.”

“Rất tốt, em có thể về chỗ.” – Người thầy nở nụ cười, rất hài lòng với câu trả lời của Lạc Mộc Vận.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận