Thanh Tân nói là “nấu” khiến Đại Hùng có chút bất ngờ. Dược thảo không phải như thức ăn, cứ đun chín rồi rải vào ít gia vị, nếm cho vừa miệng rồi bắc ra. Cái cần khi chế biến dựơc thảo là làm sao cho dược tính dễ hiển thị ra ngoài, cô đọng lại thành trạng thái dễ phối hợp với loại khác nhất, từ đó phối hợp tạo nên thành phẩm cuối cùng. Các bước xử lý mà hắn đã làm đều là đúc kết do tiền nhân tìm ra, viết lại thành phương thuốc. Tùy tiện xử lý e rằng sẽ làm hỏng thuốc. Hắn ái ngại nhìn Thanh Tân:
– Thúc thúc, thúc từng luyện đan bao giờ chưa?
– Chưa.
– Vậy thì cách xử lý dược thảo này, sợ thúc làm không được.
– Sao lại không được?
– Bởi vì chúng ta đang xử lý thuốc, không phải xử lý món ăn. Hai thứ này khác xa nhau.
Đại Hùng kiên nhẫn giải thích.
Thanh Tân mỉm cười nhìn hắn:
– Thanh niên. Ta nghĩ là ngươi đã suy nghĩ quá rắc rối rồi đấy. Bản chất của chúng nó không phải giống nhau hay sao?
Đại Hùng nhíu mày không hiểu. Thanh Tân lại tiếp tục:
– Ngươi nhìn dược phẩm và thức ăn thông qua mục đích sử dụng. Cái này tuy đúng mà sai. Thức ăn dùng để bồi bổ năng lượng hoạt động hàng ngày, còn dược thảo là để trị thương, cải tạo cơ thể … Nghe qua thì thấy khác, thực chất đều là mục đích hồi phục năng lượng mà thôi.
Nhìn gương mặt Đại Hùng lóe lên một tia nhận thức, Thanh Tân hài lòng mở rộng vấn đề:
– Thức ăn, thực ra phần lớn đều là dược phẩm cấp thấp. Bởi vì dược tính mà chúng tồn trữ quá nhỏ, cho nên khi ăn vào người ta không nhận được tác dụng ngay, cũng không bị dược tính phản phệ. Tuy nhiên nếu ăn về lâu về dài, tác dụng hẳn là có thể nhận thấy được.
– Đúng vậy.
Đại Hùng bỗng nhiên ngộ ra, vỗ đùi nói lớn.
– Cháu cũng nhớ mẹ cháu từng nói ”Mỗi món ăn là một bài thuốc.”
Thanh Tân vẫn điềm nhiên:
– Ngươi nói: xử lý dược thảo để dược tính bộc lộ ra ngoài. Còn ta hàng ngày chế biến thức ăn, cũng là để cho thực phẩm bộc lộ vị ngon của nó. Về bản chất là tương tự. Bây giờ lại nói về quá trình xử lý của hai loại này, ngươi dùng lửa đốt, chả lẽ ta không dùng lửa đốt hay sao? Chung quy chúng nó đều là nguồn gốc thực vật, động vật. Dưới lửa đốt, chúng đều chịu tác động tương tự, có khác chăng, là mức nhiệt độ nào phù hợp. Dược thảo hợp thành đan, thực phẩm cũng phối thành món. Dược phẩm dùng xúc tác linh lực, thực phẩm dùng xúc tác gia vị. Cho nên ta nói là “nấu dược phẩm” cũng không hề sai. Còn về khả năng canh độ lửa, ta không tin mình lại kém ngươi. Chỉ tính về số năm điều khiển lửa, ta cũng hơn xa rồi.
Thanh Tân cười cừơi kết thúc.
– Còn việc làm sao kích thích linh khí trong nguyên liệu phát ra, với ba trăm món ăn từ linh thực mà ta biết, có lẽ kinh nghiệm cũng đủ.
Đại Hùng mặt tươi như nhặt được linh thạch. Những lời Thanh Tân nói hắn không phản bác được, đồng nghĩa là chấp nhận sự giúp đỡ của Thanh Tân. Việc đó có bận lòng gì? Có thêm người giúp đỡ là bớt mệt nhọc hơn rất nhiều, nhất là lúc thiếu thốn thời gian như hiện nay. Chẳng qua ban nãy hắn sợ bị tổn thất số nguyên liệu vốn đã hơi ít ỏi thôi.
Thanh Tân là người lão luyện về lửa. Chỉ cần Đại Hùng nói rõ nhiệt độ cùng thời gian xử lý dược thảo, Thanh Tân đều có thể dễ dàng làm được như yêu cầu. Kinh nghiệm về cách dùng nồi nấu của ông chú này cũng khiến cho Đại Hùng mở rộng tầm mắt. Đối với loại dược thảo nào thì nên dùng lọai nồi nào. Gang, sành, sứ, đất – mỗi loại khi đem đun các dược thảo riêng biệt thì sẽ có một hiệu quả riêng biệt khác nhau, mà đều là tốt hơn bình thường. Đúng là dược thảo cũng như thực phẩm, vẫn có thể áp dụng nguyên tắc “nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch”. Điều này khiến Đại Hùng chợt cảm giác thực ra đầu bếp và luyện dược sư là hai nghề gần gũi nhau như anh với em vậy.
Nhìn tốc độ đun dược thảo của Thanh Tân thậm chí còn hiệu quả hơn cả mình, Đại Hùng không khỏi cảm khái:
– Sao thúc không theo nghề luyện dược sư luôn nhỉ?
– Ài, thực ra sư phụ đầu tiên của ta là một dược sư chân chính. Nhưng ta thế nào lại cảm thấy các đan dược chế ra hầu hết đều có vị khó nuốt, cho nên khi đun thuốc liền giống lúc nấu ăn, tiện tay cho vào một ít gia vị. Sư phụ ta biết được lập tức nổi giận, mắng ta là làm hỏng dược tính của đan dược, rồi đá ta ra khỏi cửa. Sau đó ta cảm thấy ta rất hay quan tâm đến hương vị những thứ bỏ vào trong miệng, quả thực thích hợp với nghề đầu bếp hơn, cho nên mới chuyển sang học nấu ăn.
Thảo nào ông chú này làm việc lại nhanh nhẹn như vậy. Nhưng việc của sư phụ Thanh Tân, Đại Hùng lại không đồng tình. Tại sao thực phẩm cho gia vị lại không lo mất tác dụng, trong khi đối với dược phẩm lại lo? Việc này sắp tới phải tiến hành thí nghiệm, nếu mọi thứ đúng như hắn suy đoán, đan dược hẳn là dễ uống hơn nhiều. Trên đời này cũng không thiếu người sợ thuốc đắng. Đem làm kinh doanh, không chừng sẽ được rất nhiều linh thạch. Mới nghĩ đến đây Đại Hùng đã cảm giác có tiếng tinh thạch leng keng kêu gọi. Ý định này sau khi làm xong số thuốc phạt sẽ từ từ thí nghiệm.
Vị huynh đệ xưởng Khí Giáp không rảnh đứng xem hai người Đại Hùng chế thuốc, đã sớm trở về. Dù sao Thiết Cung Đan cũng chẳng phải đan dược gì mới mẻ, hầu như các đệ tử Long Khí Môn ít nhiều đều dùng qua, tác dụng là củng cố khí cung, tăng cường khả năng trữ linh và khống chế khi linh lực tăng cao.
Trong bếp của Bảo Thú Trại lúc này chỉ còn lại hai tên cắm cúi đun đun nấu nấu. Khi bắt đầu có linh lực trong cơ thể, nó sẽ tiến hành cải tạo lại từng tế bào trên người. Những bệnh tật vặt vãnh lúc này đều được miễn dịch. Không những thế, vài dị tật bẩm sinh như vệt nám hay điểm xấu ngoài da như mụn nhọt, trứng cá cũng nhất nhất tiêu trừ. Trong lịch sử không phải chưa từng có những cô nương chỉ vì muốn thay đổi làn da, gương mặt mà chăm chỉ cầu tiên học đạo – sức hy sinh vì sắc đẹp của nữ giới luôn ở mức kinh người a. Riêng đối với Đại Hùng mà nói, có linh lực, việc thức đêm chế thuốc bây giờ dễ như ăn gỏi. Thanh Tân tu vi còn cao hơn hắn, lại càng cảm thấy nhẹ nhàng. Có điều sau khi xử lý xong hết các loại dược thảo, sẽ đến giai đoạn làm cho người có linh lực cũng có thể cảm thấy mất sức: hợp đan.
Đan dược phẩm cấp càng cao, nhân đan càng phức tạp. Từ chủ vị ban đầu sẽ phải dung hợp thêm dần các vị thuốc khác, chứ không dễ dàng làm một nhân đan bằng cách nấu chung hai ba nguyên liệu như cấp dưới. Cũng may Thiết Cung Đan còn chưa phải loại cao cấp gì, chỉ hơn Bồi Thú Đan một chút, làm nhân đan theo kiểu cũ vẫn dùng được. Thậm chí vì trong các thành phần thảo dược phối chế không có vị nào mang linh khí hỗn loạn, việc dùng linh lực xúc tác của Đại Hùng còn nhẹ đi mấy phần. Hắn chỉ việc đưa linh lực vào trong hỗn hợp dung dịch, biến ảo thành từng làn sóng dao động không ngừng, làm cho các thành phần dược thảo liên tục va chạm, xen lẫn, hòa tan vào nhau, nhanh chóng tạo ra hỗn hợp mới. Dù nói là dễ dàng, giữa tốn linh lực và không tốn linh lực, Đại Hùng thực ra cũng cảm thấy đôi chút uể oải, nhất là với khối lượng thuốc lớn đến vậy.
Đại Hùng sau khi cô đặc nhân đan thành dạng cao, liền để nguyên trong nồi. Hắn rút ra một cái kẹp mà trên đầu kẹp là hai nửa bán cầu úp lại (giống đồ múc kem của chúng ta), sau đó trước con mắt trợn tròn của Thanh Tân, hắn “múc” khối nhân đan thành hàng loạt khối cầu nhỏ, rất đều đặn thả lên khay sành.
Hầu hết những đan dược cấp thấp dùng thảo dược tươi đều trải qua quá trình tạo nhân đan, nặn, rồi hợp vỏ đan. Nặn đan cũng là một việc làm tốn thời gian, nhất là luyện đan với số lượng lớn. Thanh Tân lần đầu tiên thấy có một luyện dược sư “nặn” nhân đan kiểu này, chỉ còn biết đi hết từ thán phục này tới thán phục khác. Dùng cái kẹp này múc nhân đan, đảm bảo viên nào cùng đều như viên nào. Ngoài ra hình dáng tròn đều, cực kỳ thích mắt, chế ra đan dược tuyệt không có khả năng dược tính nhiều ít bất đồng, khiến người sử dụng có thể dễ dàng tính toán lượng dược phẩm cần sử dụng, tiêu dùng cũng tiết kiệm nhất.
Đại Hùng không để ý vẻ mặt kinh ngạc của Thanh Tân, vừa múc nhân đan hắn vừa ngâm nga nho nhỏ. Mọi khi giai đoạn này hắn ngồi nặn đến khổ. Nặn mấy trăm viên còn phải ước lượng sao cho đồng đều, lại vo sao cho tròn để khi hợp vỏ đan sẽ dễ dàng và bền chắc – đây hoàn toàn là một công đoạn tỉ mỉ và hao công tổn sức, vừa nghĩ đến là tính lười đã muốn nổi lên rồi. Mấy hôm trước ngồi ăn hạt dẻ, hắn nhìn đống rác mình thải ra mới liên tưởng sáng tạo ra cái công cụ này, khi sử dụng thật nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Hóa ra mọi sáng chế của con người đều bắt nguồn từ sự lười biếng a! – Đại Hùng tâm đắc phát hiện.
Chuẩn bị xong nhân đan là đến giai đoạn hợp vỏ đan. Thiết Cung Đan cũng có hai lớp vỏ bao như Bồi Thú Đan, nhưng đều là loại vỏ cần luyện trong lửa. Điều này rất có lợi cho Đại Hùng.
Giống như búa gỗ nện vào đầu khiến Thanh Tân choáng váng, Đại Hùng moi trong bao đựng đồ mới nhận ra một bộ khung trụ đặt ngang trên bếp lò, sau đó để một thanh tinh thiết có một bao lưới, trong bỏ vào một viên nhân đan được bọc lớp vỏ bằng bột Ngưu Tất lên trên, rồi hắn bắt đầu chỉnh cửa gió và… quay đan.
Thanh Tân há miệng nhìn Đại Hùng một tay phát linh lực giữ cho bột Ngưu Tất không bị bở ra, tay kia đều đều xoay thanh kẹp đan trong lửa hồng, lắp bắp:
– Điều này sao có thể? Rốt cuộc là luyện đan hay nướng thịt chó đây?
– Luyện đan. Đương nhiên là luyện đan rồi.
Đại Hùng toét miệng cười. Chẳng lẽ ông chú này không thấy mình đang kẹp viên đan sờ sờ ở đấy sao?
Thanh Tân liền muốn nghẹn họng. Mới đầu tối mình còn thao thao bất tuyệt dạy bảo hắn nào là luyện dược cũng như nấu ăn, phương cách đều có thể ứng dụng qua nhau, nào ta đây từng học chế thuốc rồi mới làm đầu bếp, kinh nghiệm vượt xa ngươi. Nhưng nhìn lại mà xem, thằng nhóc này đâu chỉ biết chế đan như nấu bếp, thậm chí “đồ chơi” hắn cũng đã chuẩn bị đầy đủ, động tác lại thành thạo như thể từng làm từ hồi còn mặc tã. Tủ mủ, tù mù vác cái lu nó chạy. Nụ cười hơn hớn kia, không chừng là nó đang chế nhạo mình múa rìu qua mắt thợ.
Thanh Tân sượng sùng nhìn chăm chăm vào bộ đồ nghề hợp vỏ đan của Đại Hùng, trong lòng chỉ có cảm thán và cảm thán. Dùng lưới thép mảnh giữ đan dược không làm ảnh hưởng sức nóng của lửa tới viên đan, nhưng cũng đủ giữ viên đan luôn giữ một vị trí cố định với ngọn lửa. Việc dùng bộ “treo đan” cũng tiết kiệm linh lực rất nhiều. Đừng nghĩ chuyện phát linh lực bao đan cùng lưu đan trong không trung là giống nhau. Cũng như dùng tay chạm vào chùm nho và cầm cả chùm nho nâng lên cao vậy. Bên nào chóng mỏi tay hơn hẳn là dễ biết.
Trong khi điều chế các loại đan dược, những lượt đầu hợp vỏ đều khó có khả năng cho ra được sản phẩm thành công. Nhưng nhờ có Thu Hà trực tiếp chỉ dẫn cùng làm mẫu từ trước, Đại Hùng tốn bảy nhân đan đã bắt đầu có bán thành phẩm ra đời. Điều này còn phải cám ơn hai năm ròng rã luyện phàm dược của hắn. Kinh nghiệm chế qua hàng ngàn viên thuốc không phải đùa. Tuy nhiên, Thanh Tân chỉ biết đây là lần đầu tiên Đại Hùng luyện loại đan dược này, tỉ lệ thành công sớm như vậy đủ dọa gã kinh hồn táng đởm.
Sau khi làm tiếp chừng mười viên cho quen tay, Đại Hùng tiếp tục rút trong bao đồ nghề ra bộ kẹp đan liên hòan, trên đó có năm túi lưới để chứa đan. Thanh Tân vừa nhìn thấy bộ kẹp đan này của Đại Hùng, trực tiếp té lăn ra đất. Thằng này không chỉ là “nướng thuốc”, nó còn là “sản xuất thuốc nướng đại trà”.