Catherine nhìn chằm chằm, miệng khô rát, sợ hãi nhìn người đàn ông nằm trên bàn chấn thương. Một thanh sắt dài ba mươi phân đâm lòi trên ngực anh ta. Một sinh viên y ngất xỉu khi nhìn thấy cảnh tượng đó, còn ba y tá đứng há hốc miệng. Thanh sắt đã găm sâu vào ngực anh ta. Nó nâng lên hạ xuống theo nhịp thở của anh.
– Huyết áp bao nhiêu? – Catherine hỏi.
Giọng cô dường như đã đánh thức mọi người trở về trạng thái sẵn sàng hành động. Tấm đo huyết áp được bơm đầy, rồi xả một ít hơi.
– Bảy mươi trên bốn mươi. Mạch lên tới một – năm mươi.
– Hãy mở cả hai thanh truyền!
– Đang mở khay đựng nước truyền.
– Ai đó gọi bác sỹ Falco xuống đây ngay! Tôi cần trợ giúp – Catherine đeo găng tay tiệt trùng. Bàn tay cô rất trơn vì ra nhiều mồ hôi. Nhìn thanh sắt nâng lên hạ xuống, cô biết rằng mũi thanh sắt đã đâm vào gần đến tim – hay thậm chí tồi tệ hơn nó thực sự đã đâm trúng tim. Điều tồi tệ nhất cô có thể làm là lôi nó ra. Việc đó có thể gây ra một lỗ thủng và máu của anh ta sẽ bị rút hết qua lỗ thủng đó chỉ trong vài phút.
Các y tá cấp cứu hiện trường đã đưa ra quyết định đúng: họ đã truyền máu, lắp ống thở cho nạn nhân, đưa anh ta vào phòng cấp cứu và vẫn để thanh sắt ở chỗ cũ. Phần còn lại là việc của cô.
Cô vừa đưa tay định lấy dao mổ thì cánh cửa bật mở. Cô ngẩng lên và nhẹ người khi thấy bác sỹ Peter Falco bước vào. Anh dừng lại, nhìn ngực bệnh nhân có một thanh sắt lòi ra như một cái cọc đâm xuyên người một con ma cà rồng.
– Đây là vụ chúng ta không thường gặp – anh nói.
– Huyết áp đang tụt mạnh! – một y tá hét to.
– Không còn thời gian chờ tim nhân tạo nữa. Tôi sẽ mổ ngay – Catherine quyết định.
– Tôi sẽ ở ngay cạnh cô – Peter quay lại và nói rất tự nhiên – Lấy cho tôi áo khoác nhé?
Catherine nhanh chóng tạo một vết mổ ở phần bên phía trước. Nó sẽ để lộ ra rõ nhất các bộ phận quan trọng trong lồng ngực. Cô đã cảm thấy bình tĩnh hơn vì Peter đã đến. Đó không chỉ là có thêm một đôi tay lành nghề, mà đó chính là cô có Peter bên cạnh, là cách anh có thể bước vào phòng cấp cứu và hiểu ngay tình hình khi chỉ cần nhìn qua. Cô an tâm vì anh không bao giờ to tiếng trong phòng cấp cứu, không bao giờ tỏ ra hoảng loạn. Anh có hơn năm năm kinh nghiệm so với cô về lĩnh vực phẫu thuật chấn thương. Chính trong những ca mổ đáng sợ như thế này, kinh nghiệm của anh mới được bộc lộ.
Anh chọn chỗ đối diện với Catherine bên này bàn mổ. Cặp mắt xanh lơ của anh nhìn kỹ vết mổ.
– Được rồi! Chúng ta thư giãn chưa nhỉ?
– Đã cười nhiều lắm rồi!
Anh bắt tay vào việc ngay. Đôi tay anh phối hợp ăn ý với đôi tay cô khi họ cùng nhau xé toang lồng ngực bằng một lực rất mạnh. Anh và Catherine đã phối hợp trong nhiều ca trước đây nên mỗi người tự động hiểu người kia cần gì và họ có thể tiên đoán động thái của người kia.
– Có chuyện gì với anh ấy vậy? – Peter hỏi. Máu xối ra. Anh bình tĩnh kẹp chặt kẹp cầm máu vào chỗ máu chảy.
– Một công nhân xây dựng. Bị lỡ chân và ngã nghiêng, khiến anh ấy bị xiên như vậy.
– Điều đó sẽ phá hỏng cả ngày của các bạn đấy. Hãy lấy dụng cụ banh vết mổ Burford!
– Burford đây!
– Chúng ta đã xét nghiệm máu chưa?
– Đang chờ ở phòng xét nghiệm – một y tá trả lời.
– Bác sỹ Murata có trong bệnh viện không?
– Đội phụ trách tim nhân tạo của anh ấy đang đến.
– Vậy chúng ta chỉ cần thêm chút thời gian ở đây. Nhịp tim thế nào?
– Nhịp tâm thất là một trăm năm mươi. Tim hơi rung…
– Tâm thu giảm xuống năm mươi!
Catherine quay ngoắt lại nhìn Peter.
– Chúng ta sẽ không thể chờ quả tim nhân tạo được.
– Vậy thì hãy xem chúng ta có thể làm gì!
Cả căn phòng đột nhiên im lặng khi anh nhìn vết mổ.
– Ôi lạy Chúa! – Catherine kêu lên – Đó là tâm nhĩ.
Đầu thanh sắt đã găm vào vách tim. Mỗi lần tim đập thì máu tươi lại tràn lên mép chỗ thủng. Máu đã ứ lại thành vũng lớn trong lồng ngực.
– Chúng ta sẽ lôi nó ra. Nó sẽ biến thành một giếng phun thực sự! – Peter nói.
– Anh ấy đã bị chảy máu quanh chỗ thủng.
Y tá nói.
– Tâm thu gần như không đo được.
– Được rồi! – giọng Peter không hề tỏ vẻ hoảng loạn, cũng không có dấu hiệu của sự sợ hãi. Anh nói với một trong các y tá – Cô có thể tìm cho tôi ống thông nước tiểu cỡ mười sáu, hiệu Foley của Pháp và một quả bóng đường kính ba mươi phân không?
– Vâng, bác sỹ Falco. Anh nói là ống Foley à?
– Đúng, ống thông nước tiểu.
– Và chúng ta cần thêm một xi lanh chứa mười cc muối – Catherine thêm vào – Chuẩn bị ấn nó! – cô và Peter không cần giải thích với nhau bất cứ điều gì, họ đều hiểu kế hoạch của nhau.
Ống thông nước tiểu Foley là một ống dẫn được thiết kế để thông vào bàng quang, hút nước tiểu ra. Nó được đưa cho Peter. Họ sẽ sử dụng nó vào việc mà chưa ai từng thực hiện từ trước đến nay.
Anh nhìn Catherine.
– Cô sẵn sàng chưa?
– Làm đi!
Mạch cô đập mạnh khi nhìn Peter nắm chặt thanh sắt. Cô thấy anh nhẹ nhàng lôi nó ra khỏi vách tim. Khi nó được rút ra, máu xối xả từ chỗ thủng. Catherine lập tức nhét đầu ống thông nước tiểu vào chỗ thủng.
– Bơm quả bóng vào! – Peter nói.
Một y tá ấn xi lanh, tiêm mười cc muối khoáng vào đầu ống thông nước tiểu Foley.
Peter kéo ống thông nước tiểu, nhồi chặt cho quả bóng chui vào trong vách tâm nhĩ. Đợt máu bị chặn lại, chỉ còn rỉ ra một ít.
– Còn sống chứ? – Catherine hét to.
– Tâm thu vẫn ở mức năm mươi. Máu truyền đã đến. Chúng tôi sẽ cho truyền ngay.
Tim vẫn đập, Catherine nhìn Peter và thấy anh nháy mắt với cô qua tấm kính bảo vệ.
– Vui không? – anh hỏi rồi với tay, lấy cái kẹp có mũi tiêm vào tim – Cô muốn làm phần việc vinh quang chứ?
– Anh cá gì?
Anh đưa cho cô đuôi kim. Cô sẽ khâu mép lỗ thủng lại với nhau, lôi ống thông tiểu Foley ra, trước khi gắn lại toàn bộ lỗ thủng đó. Cứ khâu xong một mũi, cô lại cảm thấy ánh mắt khích lệ của Peter. Cô cảm thấy mặt đỏ rần lên vì đã lấp lánh tia sáng thành công. Cô đã cảm nhận được nó trong xương tủy của mình: bệnh nhân này sẽ sống.
– Khởi đầu một ngày mới thật tuyệt phải không? – anh nói – Xé toang lồng ngực.
– Đây là dịp sinh nhật tôi sẽ không quên.
– Lời mời của tôi vẫn dành cho tối nay. Chuyện đó thế nào?
– Tôi phải trực.
– Tôi sẽ bảo Ames trực thay cô. Thôi nào! Ăn tối và khiêu vũ.
– Tôi nghĩ là anh mời tôi đi máy bay của anh cơ mà!
– Cô muốn gì cũng được. Trời ơi! Hãy ăn món bánh mỳ kẹp bơ đậu nành. Tôi sẽ mang cốc-tai bia Skeepy.
– Ha ha! Tôi biết anh lúc nào cũng tiêu xài hoang phí.
– Catherine, tôi nói nghiêm túc đấy.
Nhận ra sự biến đổi trong giọng nói của anh, cô ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt hiền hòa của anh. Đột nhiên cô thấy cả phòng im lặng và tất cả những người khác đang nghe ngóng, chờ đợi xem bác sỹ Cordell không thể chinh phục cuối cùng có bị khuất phục trước sự mê hoặc của bác sỹ Falco không.
Cô khâu một mũi nữa khi suy nghĩ về việc cô thích có một đồng nghiệp như Falco mức nào. Cô tôn trọng anh mức nào và anh cũng vậy. Cô không muốn điều đó thay đổi. Cô không muốn phá hoại mối quan hệ quý giá đó bằng một hành động rủi ro là tạo thêm khoảng cách với anh.
Nhưng, làm sao cô có thể bỏ qua một ngày khi cô có thể ra ngoài đi chơi nhỉ! Đó là một buổi tối đáng mong đợi, chứ không đáng e sợ.
Cả phòng vẫn im lặng chờ đợi.
Cuối cùng, cô ngẩng lên nhìn anh.
– Đón tôi lúc tám giờ nhé!
Catherine rót một ly rượu merlot, đứng bên cửa sổ, nhấm nháp cốc rượu khi nhìn ra màn đêm bên ngoài. Cô nghe thấy tiếng cười, thấy mọi người đi bộ trên đại lộ Commonweath phía dưới. Khu phố Newburry sành điệu chỉ cách đây một khu nhà. Và cứ đến tối thứ sáu vào mùa hè như thế này, những khu quanh Back Bay là điểm thu hút khách du lịch. Catherine đã chọn sống ở Back Bay chỉ vì điều đó, cô thấy thoải mái khi biết có những người khác quanh cô, mặc dù họ là người lạ. m nhạc và tiếng cười nghĩa là cô không cô độc, không bị tách biệt.
Nhưng cô ở đây, đóng mình sau ô cửa, uống cốc rượu một mình, cố thuyết phục bản thân rằng cô đã sẵn sàng tận hưởng thế giới ngoài kia.
Thế giới mà Andrew Capra đã đánh cắp của mình.
Cô ấn tay lên cửa sổ. Những ngón tay tì cong trên cửa sổ như thể muốn phá vỡ nó để giải thoát cô khỏi nhà tù tiệt trùng này.
Cô liều mình uống hết cốc rượu, đặt cốc lên ngưỡng cửa. Mình sẽ không là nạn nhân, cô nghĩ. Mình sẽ không để hắn thắng.
Cô vào phòng ngủ, xem quần áo trong tủ. Cô lấy ra một chiếc váy lụa màu xanh lục, mặc lên. Đã bao lâu rồi cô không được mặc bộ váy này? Cô không nhớ nổi.
Ở phòng bên có tiếng nói to vui vẻ: “Bạn có thư!”. Đó là thông báo trên máy tính của cô. Cô lờ tin nhắn đó, vào phòng tắm trang điểm. Son phấn, cô nghĩ khi bôi kem mắt, và tô son. Một chiếc mặt nạ dũng cảm, giúp cô đối diện với thế giới bên ngoài. Mỗi lần quệt một lớp trang điểm là cô đang xây thêm tự tin. Trong gương, cô thấy một phụ nữ mà cô gần như không nhận ra. Một phụ nữ cô đã không gặp hai năm rồi.
Cô tắt điện phòng tắm, ra phòng khách. Chân cô đang quen dần với giày cao gót. Peter đến trễ, đã tám giờ mười lăm. Cô nhớ thông báo “Bạn có thư” vọng ra từ phòng ngủ. Cô lại gần máy tính, nhấp vào biểu tượng thư điện tử.
Có một tin nhắn từ người gửi tên là SavvyDoc.
Thư có tiêu đề là “Báo cáo từ phòng thí nghiệm”. Cô mở thư.
Bác sỹ Cordell,
Tệp đính kèm là các bức ảnh về cơ thể người sẽ khiến cô quan tâm.
Bức thư không để tên người gửi.
Cô di chuyển con trỏ đến biểu tượng tải tệp tin. Rồi cô do dự, ngón tay vẫn để hờ trên con chuột. Cô không biết người gửi, SavvyDoc và cô thường không tải tệp của người lạ. Nhưng tin nhắn này viết ngắn gọn là có liên quan đến công việc của cô và có đề tên cô.
Cô nhấp nút tải về.
Một bức ảnh màu hiện lên trên màn hình.
Cô há hốc miệng, bật khỏi ghế như bị bỏng. Chiếc ghế đổ lăn trên sàn. Cô loạng choạng về phía sau, tay ôm chặt miệng.
Rồi cô chạy đi lấy điện thoại.
Thomas Moore đứng ở ngưỡng cửa, nhìn cô chăm chú.
– Bức ảnh vẫn trên màn hình chứ?
– Tôi không chạm đến nó.
Cô bước sang bên. Anh bước vào rất đúng tác phong của một cảnh sát. Anh nhìn ngay người đàn ông đang đứng cạnh máy tính.
– Đây là bác sỹ Peter Falco – Catherine nói – Bạn đồng nghiệp của tôi.
– Chào bác sỹ Falco – Moore nói khi họ bắt tay.
– Catherine và tôi định ra ngoài ăn tối nay – Peter nói – Tôi có việc ở bệnh viện. Tôi vừa đến trước anh một lúc và… – Anh dừng lại nhìn Catherine – Tôi phải hoãn bữa tối nay sao?
Moore ngồi xuống cạnh chiếc máy tính. Màn hình để ở chế độ chờ. Những con cá nhiệt đới rực rỡ bơi ngang màn hình. Anh xoa con chuột.
Bức ảnh được tải về hiện lên.
Lập tức, Catherine quay về phía cửa sổ. Cô đứng đó, ôm chặt lấy mình, cố quên đi hình ảnh cô vừa nhìn thấy trên màn hình. Cô nghe thấy Moore gõ lên bàn phím sau lưng. Cô nghe thấy anh gọi điện và nói.
– Tôi vừa gửi tệp tin. Nhận được chưa? – Bóng tối dưới ô cửa của cô đột nhiên im lặng lạ lùng. Đã muộn thế sao? Cô tự hỏi. Cô nhìn khu phố im lìm. Cô không thể tin nổi một giờ trước cô đã sẵn sàng bước ra ngoài lúc trời tối để vui cùng thế giới ấy.
Giờ cô chỉ muốn khóa hết chốt cửa và trốn chạy.
Peter nói.
– Kẻ quái nào lại gửi cho cô thứ này? Ghê quá!
– Tôi không muốn nhắc đến nó – cô nói.
– Trước đây cô nhận được thứ tương tự bao giờ chưa?
– Không hề.
– Vậy tại sao cảnh sát lại can thiệp?
– Làm ơn thôi đi, Peter! Tôi không muốn nói về chuyện đó!
Họ dừng lại.
– Ý cô là cô không muốn nói chuyện với tôi.
– Không phải lúc này, không phải đêm nay.
– Nhưng cô sẽ nói chuyện đó với cảnh sát phải không?
– Bác sỹ Falco – Moore nói – Thực sự sẽ tốt hơn nếu anh rời khỏi đây ngay.
– Catherine, cô muốn gì?
Cô thấy anh bị tổn thương nhưng cô không thể quay lại nhìn anh.
– Tôi muốn anh về đi. Làm ơn!
Anh không trả lời. Chỉ khi anh đóng cửa, cô mới biết anh đã bỏ về.
Họ im lặng rất lâu.
– Cô không nói gì với anh ta về việc ở Savannah chứ? – Moore hỏi.
– Không, tôi không bao giờ tự nói chuyện với anh ấy – Bị cưỡng bức là một chủ đề quá nhạy cảm, quá nhục nhã để đem ra nói chuyện, thậm chí với ai đó quan tâm đến bạn.
Cô hỏi.
– Người phụ nữ trong tấm hình là ai?
– Tôi mong là cô có thể cho tôi biết.
Cô lắc đầu.
– Tôi cũng không biết người gửi là ai.
Chiếc ghế kêu cót két khi anh đứng lên. Cô thấy anh đặt tay lên vai cô. Hơi ấm của anh truyền qua lớp váy lụa. Cô vẫn chưa thay quần áo, vẫn mặc rất đẹp, chuẩn bị cho buổi tối. Toàn bộ ý nghĩ về việc ra ngoài giờ khiến cô thấy hối hận. Cô đã nghĩ gì vậy? Cô muốn trở lại bình thường như mọi người sao? Cô lại muốn vẹn toàn như xưa sao?
– Catherine – anh nói – Cô phải cho tôi biết về bức ảnh này.
Những ngón tay của anh ấn chặt lên vai cô. Cô chợt nhận ra anh gọi tên thánh của mình. Anh đang đứng gần cô đến nỗi cô cảm thấy hơi thở của anh phả vào tóc mình nhưng cô không hề thấy bị đe dọa. Bất cứ sự đụng chạm nào của đàn ông dường như là hành động xâm phạm nhưng sự đụng chạm của Moore thực sự khiến cô an lòng.
Cô gật đầu.
– Tôi sẽ cố.
Anh kéo một chiếc ghế khác. Họ cùng ngồi xuống trước máy tính. Cô buộc mình phải tập trung vào bức ảnh.
Người phụ nữ có mái tóc xoăn như cái vặn nút chai xõa trên gối. Môi cô bị khóa chặt dưới lớp băng dính ống nhựa nhưng mắt vẫn mở to và còn tỉnh táo. Võng mạc ánh lên đỏ rực dưới ánh đèn máy ảnh. Bức ảnh chụp cô từ phần hông trở lên. Cô bị trói vào giường và trần truồng.
– Cô nhận ra cô ấy không?
– Không.
– Bức ảnh này có gì quen thuộc với cô không? Căn phòng hay đồ đạc chẳng hạn?
– Không. Nhưng…
– Cái gì?
– Hắn đã làm như vậy với tôi – cô thì thào – Andrew Capra cũng đã chụp ảnh tôi, trói tôi vào giường… – cô nuốt nước bọt. Sự xấu hổ xâm chiếm cô như thể toàn bộ cơ thể cô đang hiện ra rất gần gũi dưới ánh mắt của Moore. Cô thấy mình khoanh tay trước ngực để bảo vệ không cho kẻ khác xâm phạm ngực mình.
– Tệp tin này được gửi đi lúc năm giờ năm phút chiều. Tên người gửi là SavvyDoc. Cô nhận ra cái tên này không?
– Không – cô lại nhìn bức ảnh người phụ nữ đang nhìn cô bằng đôi mắt đỏ rực – Cô ấy còn tỉnh táo. Cô ấy biết hắn sắp làm gì. Hắn chờ đợi điều đó. Hắn muốn nạn nhân phải tỉnh táo để cảm nhận sự đau đớn. Nạn nhân phải tỉnh táo, nếu không hắn sẽ mất hết hứng thú… – mặc dù đang nói về Andrew Capra nhưng cô lại chuyển dần sang dùng thời hiện tại như thể Capra vẫn còn sống.
– Sao hắn biết địa chỉ thư điện tử của cô?
– Thậm chí tôi còn không biết hắn là ai.
– Hắn đã gửi cho cô, Catherine. Hắn biết chuyện đã xảy ra với cô ở Savannah. Cô nghĩ ai có thể làm chuyện này?
Chỉ có một người, cô nghĩ. Nhưng hắn chết rồi. Andrew Capra chết rồi.
Di động của Moore đổ chuông. Cô suýt nữa nhảy ra khỏi ghế.
– Chúa ơi! – cô kêu lên. Tim cô đập mạnh, rồi cô bình tĩnh trở lại.
Anh mở điện thoại.
– Đúng, giờ tôi đang ở bên cô ấy… – Anh nghe điện một lát rồi bất chợt nhìn Catherine. Ánh mắt anh làm cô giật mình.
– Chuyện gì vậy? – Catherine lo lắng hỏi.
– Đó là thám tử Rizzoli. Cô ấy nói cô ấy đã tìm được nguồn gốc của bức thư.
– Ai gửi nó?
– Là cô.
Dường như anh vừa tát vào mặt cô. Cô chỉ lắc đầu, quá sốc nên không nói nên lời.
– Biệt danh SavvyDoc mới được lập chiều nay, sử dụng tài khoản trên mạng Mỹ của chính cô – anh nói.
– Nhưng tôi có hai tài khoản tách biệt, một để dùng cho việc cá nhân…
– Còn tài khoản kia?
– Cho các nhân viên văn phòng của tôi để dùng trong khi… – Cô dừng lại – Văn phòng. Hắn đã dùng máy tính ở văn phòng của tôi.
Moore áp điện thoại vào tai.
– Cô nghe rõ chứ, Rizzoli? – Anh dừng lại rồi nói – Chúng tôi sẽ gặp cô ở đó.
Thám tử Rizzoli chờ họ bên ngoài phòng làm việc của Catherine. Một nhóm người đã đứng ở hành lang. Trong đó có một nhóm nhân viên an ninh của tòa nhà, hai nhân viên cảnh sát và vài người mặc thường phục. Có lẽ đó là thám tử, Catherine nghĩ vậy.
– Chúng tôi đã tìm kiếm trong văn phòng – Rizzoli nói – Hắn đi lâu rồi.
– Vậy chắc chắn hắn đã ở đó? – Moore khẳng định.
– Cả hai máy tính đều bật. Cái tên SavvyDoc vẫn hiện trên màn hình đăng nhập vào mạng của Mỹ.
– Hắn vào bằng cách nào?
– Cánh cửa dường như không bị cạy. Có dịch vụ trông coi phòng được ký kết để dọn dẹp các văn phòng này, vì vậy đã có một số chìa khóa vạn năng được sử dụng quanh đây. Cộng thêm vào đó là các nhân viên làm việc trong phòng này.
– Chúng tôi có nhân viên hóa đơn, lễ tân và hai trợ lý phòng khám – Catherine nói.
– Cả cô và bác sỹ Falco nữa.
– Đúng.
– Vậy điều đó nghĩa là sáu chìa khóa khác có thể đã bị mất hay bị mượn – phản ứng của Rizzoli rất gay gắt. Catherine không để ý đến người phụ nữ này. Cô không biết cô ta có cảm nhận được điều đó không.
Rizzoli chỉ tay về phía phòng làm việc.
– Được rồi, hãy cùng đưa cô qua một lượt các phòng, bác sỹ Cordell để ý xem có mất mát thứ gì không. Nhưng đừng chạm vào bất cứ vật gì, được chứ? Kể cả cánh cửa hay máy tính. Chúng tôi sẽ phủ bụi để tìm vân tay.
Catherine nhìn Moore, anh đặt tay lên vai cô an ủi. Họ bước vào phòng làm việc của cô.
Cô chỉ thoáng nhìn phòng chờ của bệnh nhân rồi vào khu tiếp đón, nơi làm việc của nhân viên. Máy tính in hóa đơn vẫn bật. Ổ A trống rỗng, kẻ đột nhập không để lại bất cứ đĩa mềm nào lại.
Moore dùng chiếc bút, gõ lên con chuột máy tính để tắt chế độ chờ màn hình. Cửa sổ đăng nhập vào mạng của Mỹ hiện lên. Cái tên SavvyDoc vẫn hiện trong hộp thoại.
– Cô thấy căn phòng này có gì thay đổi không? – Rizzoli hỏi.
Catherine lắc đầu.
– Được rồi. Hãy vào văn phòng của cô!
Tim cô đập nhanh hơn khi cô bước dọc hành lang, qua hai phòng khám. Cô bước vào phòng làm việc của mình. Lập tức cô nhìn ngay lên trần nhà. Cô há hốc miệng, giật mình lùi lại và suýt đâm sầm vào Moore. Anh nắm chặt cánh tay cô để cô bình tĩnh lại.
– Chúng tôi đã tìm thấy nó ở đó – Rizzoli nói và chỉ ống nghe lơ lửng trên bóng đèn treo trên đầu – Nó được treo ở chính chỗ đó. Tôi nghĩ cô không đặt nó ở đó.
Catherine lắc đầu. Cô nói, giọng vẫn đầy kinh hãi.
– Trước đó hắn đã ở đây.
Ánh mắt Rizzoli dán chặt vào cô.
– Khi nào?
– Mấy hôm trước. Tôi phát hiện vài thứ bị mất và bị thay đổi vị trí.
– Vật gì?
– Ống nghe, áo khoác phòng thí nghiệm của tôi.
– Hãy nhìn quanh phòng! – Moore nhẹ nhàng khuyên cô nên tiếp tục – Có vật gì khác thay đổi không?
Cô nhìn giá sách, bàn và tủ đựng hồ sơ. Đây là không gian riêng của cô và cô đã sắp xếp từng milimet. Cô biết mọi thứ nên và không nên ở đâu.
– Máy tính bật – cô nói – Tôi luôn tắt đi trước khi về vào cuối ngày.
Rizzoli bấm lên con chuột, màn hình đăng nhập vào mạng của Mỹ hiện lên, có tên của Catherine “CCord” trong hộp thoại đăng nhập.
Cô nhìn chăm chăm vào bàn phím. Hắn đã gõ lên những bàn phím này. Hắn đã ngồi lên chiếc ghế này.
Giọng nói của Moore làm cô giật mình.
– Bị mất thứ gì không? – anh hỏi – Rất có thể là một vật nhỏ, một vật gì đó rất riêng tư.
– Sao anh biết điều đó?
– Đó là cách thức của hắn.
Vậy là điều đó đã xảy ra với những cô gái khác, cô nghĩ, và các nạn nhân khác.
– Rất có thể là thứ gì đó cô đeo trên người – Moore nhắc – Một vật gì đó cô sẽ đeo khi ở một mình. Một món trang sức, một chiếc lược hay một đoạn xích khóa.
– Ôi, lạy Chúa! – Lập tức cô cúi xuống, giật mạnh để mở ngăn bàn trên cùng ra.
– Này – Rizzoli nói – Tôi đã bảo không được chạm vào bất cứ vật gì.
Nhưng Catherine vẫn sục tay vào ngăn kéo, điên cuồng lục tung đống bút bi và bút chì.
– Nó không có ở đây.
– Cái gì?
– Tôi giữ một chùm chìa khóa dự trữ trong ngăn bàn.
– Cô treo những chìa khóa nào trên đó?
– Một chìa khóa dự trữ của xe ô tô, một của ngăn khóa trong bệnh viện… – Cô dừng lại. Cổ họng cô chợt khô rát – Hắn đã lục tủ khóa của tôi suốt ngày hôm nay, rồi hắn mò vào cả ví của tôi – Cô ngước lên nhìn Moore – Và lấy cả chìa khóa nhà của tôi nữa.
Các nhân viên kỹ thuật hình sự đã phủ bột tìm dấu vân tay khi Moore quay lại phòng y tế.
– Cô ấy đã ngủ chưa? – Rizzoli hỏi.
– Cô ấy sẽ ngủ trong phòng gọi cấp cứu. Tôi không muốn cô ấy về nhà cho đến khi nào ngôi nhà an toàn tuyệt đối.
– Chính anh sẽ thay toàn bộ ổ khóa cho cô ấy?
Anh cau mày, cố hiểu vẻ mặt của cô. Anh không thích những gì anh thấy ở đó.
– Cô có vấn đề gì sao?
– Cô ta là một phụ nữ đẹp.
Mình biết ngay chuyện này sẽ đi đến đâu mà, anh nghĩ và thở dài mệt mỏi.
– Dễ bị tổn thương, dễ bị xâm phạm – Rizzoli nói – Tuyệt! Điều đó khiến bọn đàn ông muốn chạy theo sau và bảo vệ cô ấy.
– Đó chẳng phải là công việc của chúng ta sao?
– Nghe hay quá phải không, công việc à?
– Tôi sẽ không nói về chuyện này nữa! – Anh nói rồi ra khỏi phòng khám.
Rizzoli đi theo anh như một con chó bun, cắn chặt lấy gót chân anh.
– Cô ta là trung tâm của vụ này, Moore. Chúng ta không biết cô ấy có nói thật không. Làm ơn đừng nói với tôi là anh đang quan tâm đến cô ta.
– Tôi không quan tâm.
– Còn tôi thì chưa mù.
– Vậy chính xác thì cô thấy gì?
– Tôi thấy cách anh nhìn cô ta. Và tôi thấy cách cô ta nhìn anh. Tôi thấy một cảnh sát đã mất đi tính khách quan – cô dừng lại – Một cảnh sát sẽ bị tổn thương.
Nếu cô đã lên giọng và nói câu đó một cách hung hăng thì anh cũng đã trả lời đích đáng. Nhưng cô đã nói những lời cuối cùng một cách nhẹ nhàng. Anh không có đủ sự tức giận cần thiết để nói lại.
– Tôi sẽ chẳng nói điều này với bất cứ ai – Rizzoli nói – Nhưng anh là một trong những người tốt. Nếu anh là Crowe hay một trong những tên khốn nạn khác thì tôi sẽ nói: Chắc chắn rồi! Hãy đi đến nơi tình yêu vẫy gọi! Tôi chẳng thèm quan tâm. Nhưng tôi không muốn điều đó xảy ra với anh.
Họ nhìn nhau một lúc. Và Moore cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi anh không thể chấp nhận sự thẳng thắn của Rizzoli. Dù anh khâm phục tư duy nhạy bén và động lực không ngừng vươn đến thành công của cô, nhưng lúc nào anh cũng chỉ chăm chăm nhìn khuôn mặt bình thường và những bộ com lê không ra hình dáng gì của cô. Nói một cách khác, anh cũng chẳng hơn gì Darren Crowe, không hơn gì những kẻ khốn nạn đã cho băng vệ sinh vào chai nước của cô. Anh không xứng được cô quan tâm.
Họ nghe thấy tiếng ai đó hắng giọng. Họ quay lại, thấy nhân viên điều tra hiện trường đứng ở lối đi.
– Không có dấu vân tay – anh nói – Tôi đã phủ bột lên cả máy tính, bàn phím, con chuột, các ổ đĩa. Chúng đã được lau sạch.
Điện thoại của Rizzoli đổ chuông. Cô mở ra, lầm bầm.
– Chúng ta đã nghĩ gì? Chúng ta không đối đầu với một tên khờ.
– Còn những cánh cửa thì sao? – Moore hỏi.
– Có vài vệt đứt quãng – nhân viên đó nói – Nhưng do rất nhiều loại xe ra vào nơi này… kể cả bệnh nhân và nhân viên… thì chúng ta sẽ không thể nhận dạng hay làm những việc tương tự.
– Này, Moore – Rizzoli nói và gập di động – Đi thôi!
– Đi đâu?
– Về trung tâm. Brody nói anh ấy sẽ cho chúng ta xem điều kỳ diệu của những ảnh điểm.
– Tôi đã cho tệp ảnh đó vào chương trình Photoshop – Sean Brody nói – Tệp đó có dung lượng lên tới ba mê-ga-bai. Điều đó nghĩa là nó chứa nhiều chi tiết. Tên sát nhân này không thèm chụp ảnh mờ. Hắn gửi một bức ảnh chất lượng tới ngay trước mắt nạn nhân.
Brody là một phù thủy trong lĩnh vực kỹ thuật của Bộ phận điều tra án mạng. Đó là một thanh niên hai mươi ba tuổi, mặt xanh xao, đang ngồi thõng người trước màn hình máy tính. Bàn tay anh thực sự như bám rễ vào con chuột. Moore, Rizzoli, Frost và Crowe đứng sau và nhìn màn hình qua vai anh. Brody có kiểu cười rất khó chịu, như một con chó hoang. Anh cười nắc nẻ, vui sướng khi nhân hình ảnh thành nhiều bản trên màn hình.
– Đây là một bức ảnh chụp toàn màn hình – Brody nói – Nạn nhân bị trói vào giường, còn tỉnh, mắt mở to. Mắt ánh lên màu đỏ xấu xí do đèn nháy. Hãy nhìn băng dính ống nhựa trên miệng cô ấy! Giờ hãy nhìn xuống phần góc trái tấm ảnh. Đây là mép bộ quần áo ngủ. Các bạn có thể thấy một chiếc đồng hồ hẹn giờ trên hai cuốn sách. Hãy phóng to xem mấy giờ.
– Hai giờ hai mươi – Rizzoli nói.
– Đúng vậy! Giờ lại đặt ra câu hỏi là buổi sáng hay chiều? Hãy nhìn lên phần trên tấm ảnh. Ở đó các bạn có thể thấy góc cửa sổ. Rèm cửa khép lại nhưng các bạn có thể thấy chút khe hở ở đây. Ở đó mép rèm cửa không khít lắm. Không có ánh sáng mặt trời chiếu qua. Nếu thời gian trên đồng hồ chính xác thì bức ảnh này được chụp lúc hai giờ hai mươi phút sáng.
– Đúng, nhưng vào hôm nào? – Rizzoli bực tức – Đó có thể là đêm qua hay cách đây một năm rồi. Khốn kiếp! Chúng ta còn không rõ có phải Bác sỹ phẫu thuật đã chụp bức ảnh này không.
Brody nhìn cô khó chịu.
– Tôi đã nói xong đâu.
– Được rồi, còn gì nữa?
– Hãy cuộn xuống phần dưới tấm ảnh! Hãy kiểm tra cổ tay bên phải của nạn nhân! Băng dính ống nhựa đã làm mờ nó. Nhưng các bạn thấy vết sưng tấy sẫm màu ở đó không? Các bạn nghĩ đó là gì? – Anh chỉ con trỏ và nhấp vào đó. Chi tiết trong hình to hơn.
– Vẫn không thấy gì – Crowe thông báo.
– Được rồi, chúng ta sẽ phóng to lần nữa! – anh nhấp lần nữa. Vệt sẫm màu đã có hình dạng cụ thể.
– Lạy Chúa! – Rizzoli nói – Trông nó như một con ngựa nhỏ. Đó chính là vòng tay có bùa của Elena Ortiz.
Brody quay lại, toét miệng nhìn cô.
– Tôi giỏi trong việc này chứ?
– Chính hắn! – Rizzoli thốt lên – Chính là Bác sỹ phẫu thuật!
Moore nói.
– Hãy cuộn lên chỗ bàn đầu giường!
Brody nhấp về dạng toàn màn hình, chuyển con trỏ lên góc trái.
– Anh muốn quan sát gì?
– Đồng hồ cho chúng ta biết lúc đó là hai giờ hai mươi. Và có hai cuốn sách dưới đồng hồ. Hãy nhìn gáy sách! Các bạn thấy bìa sách phản chiếu dưới ánh sáng không?
– Đúng vậy!
– Cuốn sách đó có giấy bọc ni lông trong suốt bảo vệ.
– Được rồi… – Brody nói, rõ ràng không hiểu nổi việc đó có nghĩa gì.
– Hãy phóng to phần gáy sách bên trên – Moore nói – Để xem chúng ta đọc được tên sách không.
Brody chỉ vào đó và nhấp chuột.
– Trông như hai từ – Rizzoli nói – Tôi thấy từ the.
Brody nhấp lần nữa cho hình to hơn.
– Chữ thứ hai bắt đầu bằng chữ S – Moore nói – Và nhìn cái này xem! – anh chỉ lên màn hình – Hãy nhìn hình vuông nhỏ ở đây, ở cuối gáy sách!
– Tôi biết anh sắp thấy gì – giọng Rizzoli đột nhiên rất phấn khởi – Tên sách. Tiếp nào, chúng ta cần cái tên sách chết tiệt đó!
Brody chỉ vào đó và nhấp chuột lần cuối.
Moore nhìn chăm chăm vào màn hình, nhất là chữ cái thứ hai trên gáy sách. Lập tức anh quay lại, nhấc điện thoại lên.
– Tôi chẳng hiểu gì cả – Crowe nói.
– Tên sách là Con chim sẻ – Moore nói, nhấn mạnh vào chữ O – Và một hình vuông nhỏ trên gáy sách. Tôi cá đó là một số thứ tự.
– Đó là cuốn sách mượn ở thư viện – Rizzoli nhận định.
Một giọng nói bên kia đầu dây.
– Nhân viên tổng đài xin nghe!
– Tôi là thám tử Thomas Moore, tại Sở cảnh sát Boston. Tôi cần liên lạc gấp với Thư viện công cộng ở Boston.
– Những thầy tu trong không gian – Frost ngồi ở ghế sau nói – Đó là nội dung của cuốn sách.
Họ tăng tốc đến khu phố Trung tâm. Moore lái xe, đèn báo động nhấp nháy. Hai xe tuần tiễu dẫn đường.
– Vợ tôi cũng thuộc nhóm độc giả này – Frost khoe – Tôi nhớ cô ấy đã kể về cuốn sách có tên Con chim sẻ.
– Vậy đó là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng à? – Rizzoli sốt ruột.
– Không, nó chỉ nói về những vấn đề tôn giáo. Bản chất của Chúa là gì? Những thứ đại loại như vậy.
– Vậy thì tôi chẳng cần đọc nó – Rizzoli nói – Tôi biết tất cả câu trả lời. Tôi theo đạo Thiên Chúa.
Moore nhìn sang bên kia đường và nói.
– Chúng ta sắp đến.
Địa chỉ họ tìm nằm ở phố Jamaica Plain, khu vực phía đông Boston, nằm giữa công viên Franklin và viền ngoài của thành phố Brooklin. Tên cô gái đó là Nina Peyton. Tuần trước, cô có mượn bản sao của cuốn sách Con chim sẻ tại thư viện nhánh ở Jamaica Plain. Trong số tất cả những người sống quanh Boston và đã kiểm tra bản sao của cuốn sách thì Nina Peyton là người duy nhất không trả lời điện thoại lúc hai giờ sáng.
– Đây rồi! – Moore thông báo. Hai chiếc xe đi tuần ngay trước vừa ngoặt vào phố Eliot. Anh đi ngay theo sau, qua một tòa nhà và dừng lại ngay sau xe tuần tra.
Đèn pha của một xe đi tuần chiếu một luồng sáng xanh vào màn đêm khi Moore, Rizzoli và Frost bước qua cánh cổng, tiến lại gần ngôi nhà. Bên trong có ánh đèn yếu ớt.
Moore nhìn Frost. Frost lập tức gật đầu và vòng về phía sau tòa nhà.
Rizzoli gõ cửa trước, hét lớn.
– Cảnh sát đây!
Họ chờ vài giây.
Rizzoli gõ cửa lần nữa, lần này mạnh hơn.
– Cô Peyton, cảnh sát đây! Mở cửa!
Cô dừng lại khoảng ba giây. Đột nhiên, Frost nói trên điện đàm.
– Có một màn hình quan sát ở cửa sổ phía sau!
Moore và Rizzoli nhìn nhau. Họ đã quyết định mà không cần lên tiếng.
Moore dùng đuôi đèn pin, đập cửa kính gần cửa trước, cho tay vào trong, mở cánh cửa.
Rizzoli vào nhà trước, đi cúi người. Súng của cô quét thành hình vòng cung. Moore đi ngay sau cô. Chất kích thích adrenaline tăng mạnh khi anh nhận ra một chuỗi hình ảnh nối tiếp nhau: sàn gỗ, một căn phòng mở cửa, nhà bếp ngay phía trước, phòng khách bên tay phải, một bóng đèn duy nhất sáng ở cuối bàn.
– Phòng ngủ – Rizzoli nói.
– Đi!
Họ nhìn lối đi. Rizzoli đi trước. Đầu cô ngó nghiêng hết bên phải sang bên trái khi họ đi qua phòng tắm, phòng ngủ dự trữ. Cả hai đều trống trơn. Cánh cửa cuối hành lang hơi mở, họ không nhìn qua cánh cửa, không thể thấy phòng ngủ tối om bên trong.
Moore đặt tay lên súng, tim đập mạnh, đi lần theo mép cửa. Anh dùng chân đá cánh cửa mở ra.
Mùi máu, hơi nóng và mùi hôi hám xộc lên mũi anh. Anh tìm công tắc bóng điện rồi bật lên. Trước khi cảnh tượng đó đập vào mắt, anh đã biết trước mình sẽ thấy gì. Nhưng anh vẫn chưa hoàn toàn chuẩn bị tâm lý cho cảnh tượng hãi hùng đó.
Bụng cô gái bị mổ phanh. Các đoạn ruột xổ ra khỏi vết mổ. Chúng lủng lẳng như những đoạn giấy màu khủng khiếp ở cạnh giường. Máu rỉ ra trên vết thương ở cổ và đọng lại thành một vũng lớn trên sàn nhà.
Moore phải cố lắm mới hiểu được những gì anh đang thấy. Chỉ khi đó, anh mới ghi nhận được đầy đủ các chi tiết và hiểu chúng nói lên điều gì. Máu vẫn còn mới, vẫn đang nhỏ giọt. Thành động không bị vỡ và một vũng máu gần như đã chuyển sang màu đen ngày càng lan rộng ra.
Lập tức, anh lại gần thi thể cô gái. Giày anh không giẫm lên vết máu.
– Này! – Rizzoli hét lên – Anh đang làm hỏng hiện trường!
Anh ấn ngón tay lên bên cổ còn nguyên của nạn nhân.
Cái xác mở trừng mắt.
Lạy Chúa! Cô ấy còn sống.