Ta nói: Tương lai, sử sách chỉ ghi lại Hoàng đế Yên Đường, không có Mặc Niệm Sơn.
Ngài nói: Không sao.
Ta nhìn kỹ vào mắt ngài, trong đó là mười năm sông núi cuộn chảy, hạc mây bay lượn, muôn đời thịnh vượng. Ngài độc chiếm trên đỉnh mây, cảnh tượng thịnh thế được viết dưới ngòi bút của ngài. Trong giang sơn tráng lệ, dưới bầu trời sáng tỏ, ngài chỉ để lại một bóng dáng mờ ảo.
Ngày mồng hai tháng hai năm thứ hai xuất thế, mặt trời lặn phía Tây, màn đêm buông xuống. Qua ba cửa thành, cửa lớn của Hoàng cung dần khép lại, giữa quần thể các cung điện chỉ toàn mưu mô, có một cung điện uy nghiêm lặng lẽ nằm đó. Xe ngựa dừng trước cửa Tuyên Vũ, ta vén rèm, thấy dưới đất hàng trăm người cung kính quỳ lạy, Yên Môn Vệ xếp hàng hai bên, khom gối cúi đầu: Cung nghênh Thánh thượng, Đồng Phi nương nương hồi cung.
Nhiều vị đại nhân đang đợi trong phòng Thượng Thư Phòng, Hoàng thượng đi trước. Long xa lắc lư, cung nữ đi theo bên ngoài xe, nàng nói: Nương nương thật có phúc, lần này hồi cung được đón tiếp theo quy cách của Hoàng hậu. Đèn cung đình theo cơn mưa phùn soi đến cửa cung, cung nữ đỡ ta xuống ngựa, ngẩng đầu nhìn tấm biển khắc chữ “Điện Ngô Đồng”. Mùi thơm quyến rũ như câu hồn phách, cung nữ thì thầm bên tai: Nương nương rời cung mấy năm, Thánh thượng ra lệnh phải xông hương tẩm cung của nương nương mỗi ngày, không được phép thiếu ngày nào cho đến khi nương nương hồi cung.
Ta bước vào cửa cung, giữa sân có một cây ngô đồng cao lớn, trên ngọn cây quấn đầy lá đỏ, nhìn kỹ mới thấy là hoa giả. Tương Tư dắt ta vào điện, ta thấy trên bàn có một con diều giấy màu đỏ, đó là con diều mà ta xé rách trước khi rời cung, giờ đây nó được sửa chữa hoàn hảo nằm trên bàn, Tương Tư nói, Hoàng thượng đã mất nhiều đêm để sửa lại con diều này.
Sau khi nghỉ ngơi một chút, thái giám trong cung Thái hậu đến nói, Thái hậu mời Đồng Phi nương nương.
Cuối đông, tuyết trắng phủ đầy cành mai đỏ, ta thích nhìn, liền hái vài cành. Từ xa, vài cung phi đang vây quanh lò sưởi ngắm tuyết. Họ thấy ta, từ đình đi tới hành lễ, ta cũng đáp lễ. Có những lời đáng lẽ phải tan biến trong gió, nhưng tai ta lại nghe rõ lời thì thầm: Không phải Đồng Phi đã chết rồi sao?
Đến Nguyên Thọ Cung, thái giám dẫn đường, chính điện treo bức tranh tiên cưỡi hạc, mùi trầm hương ngào ngạt. Ta đứng trước bình phong, thái giám đỡ Thái hậu từ nội điện bước ra, nhiều năm không gặp, bà đã già, tóc bạc phơ, bước đi chậm chạp. Thái hậu phẩy tay cho lui mọi người, ngồi xuống chính tháp nói: Hắn nói không sai, ngươi quả thực thông tuệ. Ta định nói vài lời khiêm tốn, Thái hậu lại nói: Chỉ là trong cung không thoải mái như dân gian, vô số cặp mắt dõi theo ngươi, giờ ngươi đã trở lại, chuyện triều chính giao cho hắn lo liệu. Ta nhận lời, nghĩ thầm nữ nhân trong cung có thể làm gì, không bằng những nguy hiểm bên ngoài. Trước khi rời đi, Thái hậu để lại một câu: Ngươi không cần hòa mình với hậu cung, giữ vững phẩm giá, mới áp chế được họ, Đồng Quý phi.
Ngày mồng ba tháng hai năm đầu tiên hồi cung, theo lệnh của Thái hậu, ta được phong làm Đồng Quý phi. Ta không hiểu nhiều về lễ nghi của Quý phi, theo lời đại thái giám là: Hậu cung chỉ có người là lớn nhất.
Đại giám đi đến Lục cung tuyên chỉ, chưa đến nửa ngày, cung của ta đã đông người. Phó chưởng cung Thụy Châu bên cạnh ta, ta lắng nghe nàng nói: Nương nương, người ngồi bên phải là Thục phi, nhi nữ Trương gia. Người bên trái là Tương phi, nhi nữ Lưu gia, đều nhập cung hai năm trước. Ta nhìn quanh không thấy người quen, ta hỏi: Lệ phi đâu? Thụy Châu lật danh sách, nhẹ nhàng bâng quơ nói: Lệ phi nương nương phát điên một năm trước, hiện đang ở lãnh cung. Ta nhìn người qua lại trong sảnh, không tự chủ nhớ lại, năm đó Ngọc Quý phi cũng ngồi ở Kim Toạ, nàng kiêu ngạo biết bao nhưng giờ đây hoa lạc điêu tàn còn ta trở thành Quý phi.
Kế tiếp là các Quý nhân, Thục nhân, ta nghe mà đau đầu, Tương Tư bưng đến chén tổ yến ngân tuyết, ta uống một ngụm. Chợt ta nghe thấy bên ngoài có tiếng xôn xao, bên ngoài cửa sổ là một loạt bóng người vây quanh một vị chủ nhân. Thế trận này nhìn như muốn diễn cho ta xem bản thân được sủng ái như nào.