Con vượn có trí nhớ tốt liền kể lại lời khuyên của Tácdăng cho bạn bè nghe. Một hôm Tơcốt đi săn về. Nó cảm thấy bộ lạc đón nó chẳng niềm nở gì. Ngay sau đó, chẳng nói chẳng rằng, ba bốn con vượn đực nhảy bổ vào tấn công cùng một lúc. Tơcốt bộc lộ ngay tính hèn nhát của mình. Sự hèn nhát này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Sự hèn nhát gắn với sự thô bạo ở loài khỉ cũng chẳng khác gì ở loài người. Tơcốt vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng vây, bỏ chạy thục mạng.
Một vài ngày sau đó nó cố mon men trở về bộ lạc. Nhưng cả hai lần nó đều bị xua đuổi và tấn công dữ dội. Nó từ bỏ ý định trở về. Sau một vài ngày thất thểu trong rừng như một kẻ cô độc, Tơcốt quyết định tìm một con vượn nào đấy để đánh đập cho hả giận. Thật là cầu được ước thấy! Ngay lúc đó nó trông thấy hai người đàn bà. Nó vội tụt xuống đất, tiến lại phía họ.
Gian Potơrơva kêu ré lên khi nhìn thấy cái mặt kinh tởm và cái mồm nhăn nhở của con thú. Tiếng kêu chưa dứt thì vòng tay vạm vỡ đầy lông lá của Tơcốt đã chộp gọn cô gái. Thấy mình trong phút chốc đã nằm ngay trước hàm răng trắng nhởn của con thú, Potơrơva nghĩ rằng phút cuối cùng của đời mình đã tới. Tơcốt túm chân cô gái vứt lên vai rồi nhảy lên cây.
Tiếng thét đầu tiên của Potơrova hòa vào tiếng thét của người đàn bà da đen. Exmeranda cũng như lần trước, chỉ thét lên một tiếng rồi ngất xỉu. Potơrova thì hơn người hầu của mình một tí. Bộ mặt gớm ghiếc của con thú cùng hơi thối từ mồm nó phả ra làm tăng thêm nỗi kinh hãi của cô. Tuy thế cô vẫn biết chuyện gì đang xảy ra với mình.
Con vượn nhanh nhẹn vác cô gái đi vào rừng sâu. Potơrova không dám chống cự. Trong đầu cô vẫn le lói một hy vọng: con vượn sẽ đưa cô ra bờ biển. Tới đó cô sẽ lấy hết sức kêu to để mọi người đến cứu. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Cô càng đóan, càng bối rối sợ hãi thêm vì con vượn độc mỗi lúc một tiến sâu vào rừng.
Tiếng thét của cô gái gọi Clâytơn và hai người già đã thôi thúc Tácdăng hơn tất cả. Chỉ trong chớp mắt, Tácdăng đã biết là người đàn bà da đen vẫn đang còn sống. Chàng bỏ qua người đàn bà đó. Thật ra với người đàn bà này, chàng cũng không quan tâm nhiều lắm. Thoáng nhìn qua mặt đất, cành cây, giác quan tinh nhậy của loài khỉ đã giải thích cho chàng tất cả. Chàng hình dung khá chính xác sự việc đã xảy ra và xảy ra như thế nào, chẳng khác gì chàng đang trông thấy nó đang diễn ra trước mắt. Chàng nhảy vọt lên cây, đuổi theo dấu vết của tên tội phạm, nhanh nhẹn như một thám tử tài ba. Chàng truy đuổi lúc này không phải theo sự điều khiển của mắt, của mũi mà chủ yếu là theo một bản năng định hướng bí mật rất kỳ diệu, vốn chỉ có ở một vài động vật rừng già.
Đến một cành cây, Tácdăng dừng lại vì đã trông thấy dấu vết của Tơ cốt để lại trên lá cây. Ngửi qua mùi lá dập, Tácdăng xác định ngay được đoạn đường ngắn nhất để chặn đường thủ phạm. Mùi da tay của Tơcốt vẫn còn để lại trên vỏ cây. Càng đi theo hướng đó, Tácdăng càng ngửi rõ mùi mồ hôi của Tơcốt. Bởi vì cả chàng và Tơcốt lúc này đều đi ngược chiều gió.
Mặc dù Tácdăng đi rất nhẹ nhàng, Tơcốt vẫn nghe thấy tiếng lá xào xạc sau lưng mình. Tiếng động đó thôi thúc Tơcốt đi nhanh hơn. Nhưng cuối cùng Tácdăng đã đuổi kịp.
Trông thấy Tácdăng, Tơcốt biết rằng lúc này có cố chạy cũng bằng thừa. Nó quyết định nhảy xuống một bãi đất trống để có thể lao vào trận đấu bảo vệ con mồi vừa bắt được, hoặc có thể dễ dàng bỏ chạy nếu như địch thủ mạnh hơn. Ngay tức khắc Tácdăng cũng nhảy xuống, nhẹ nhàng như một con báo. Nhìn thấy rõ ràng kẻ truy đuổi mình là Tácdăng, Tơcốt hiểu ngay rằng nó không thể giữ được cô gái trên lưng. Bởi vì theo nó, không những Tácdăng khỏe hơn mà còn là kẻ cùng “loài khỉ không lông” với con mồi trên lưng nó. Tơcốt lắc mình một cái, có vẻ như dồn toàn lực, chuẩn bị bước vào cuộc chiến.
Vừa nhìn thấy người đàn ông kì quặc, mặt mũi tuy sáng láng thông minh nhưng ăn mặc chẳng khác gì vị thần rừng trong chuyện cổ tích, Potơrơva choàng tỉnh. Nhớ lại lời mô tả của cha mình và Clâytơn, cô gái biết ngay đây chính là người đã mấy lần cứu họ thoát chết. Nhưng cô vừa kịp nghĩ như thế thì Tơcốt đã vứt cô xuống đất. Cô nhìn trộm con đười ươi khổng lồ với hàm răng dữ tợn của nó. Trái tim cô lại thắt lại vì sợ hãi. Không những thế, cô còn lo cho chàng trai người rừng. Làm sao chàng trai người rừng này có thể thắng nổi con vật to lớn và hung dữ như thế này!
Hai đối thủ nhanh chóng xông vào nhau như hai con trâu rừng. Đối chọi với hàm răng lởm chởm của Tơcốt là lưỡi dao găm lóng lánh của Tácdăng. Potơrơva bò tới một gốc cây to, nép mình vào thân cây, theo dõi cuộc đọ sức sinh tử giữa một người nguyên thủy và một con đười ươi.
Những cơ bắp của Tácdăng căng phồng lên vì sự cố gắng công kích. Hai cánh tay của chàng lúc nào cũng phải đưa ra vờn vờn phía trước để giữ một khoảng cách nhất định với hàm răng lởm chởm của Tơcốt. Tơcốt không thể nào cắn được chàng trai. Bàn tay lông lá của nó chỉ cào sượt được vào da đối thủ vài lần. Chỉ một lát sau, Tơcốt đã bị mấy nhát dao vào ngực. Nó yếu dần, loạng choạng trong đám đất đầy máu rồi ngã vật ra, bất động.
Potơrova kêu lên một tiếng sảng khoái. Cô định chạy ra đón chàng trai chiến thắng nhưng rồi lại dúm người lại do dự. Người cứu cô đây tính nết thế nào? Anh ta là ai? Liệu cô có phải đề phòng anh ta không? Nhưng khi cô còn đang phân vân, Tácdăng đã bước tới, bế cô gái lên vai rất nhẹ nhàng, vội vã bước đi. Con đường quay trở lại ngôi nhà gỗ đâu phải là ngắn!
° ° ° Ngày hôm sau, trời chưa hửng nắng, bốn người còn lại trong ngôi nhà đã bừng tỉnh giấc vì tiếng đại bác gầm. Clâytơn là người đầu tiên lao ra cửa. Anh trông thấy có hai con thuyền thả neo ở cửa biển. Một chiếc chính là hải thuyền Ơrâu. Chiếc thứ hai không phải là thuyền mà là một chiếc tuần dương hạm của Pháp. Lá cờ nước Pháp trên đài quan sát bay lất phất trong gió biển. Trên boong tàu, đội thủy thủ đứng cụm thành một đám, mắt đăm đăm trông vào bờ. Clâytơn và ba người sau lưng anh hiểu ngay rằng những phát đại bác là tín hiệu báo cho họ. Nhưng buồn một nỗi là hai con tàu còn rất xa bờ. Chẳng có gì đảm bảo là thủy thủ trên tàu trông thấy họ giữa những bóng cây rậm rạp thế này.
Exmeranda chạy ra ngoài nhà. Cô cởi chiếc tạp dề màu đỏ ở bụng ra, đưa lên đầu vẫy vẫy rối rít. Trong khi đó Clâytơn chạy ra những đống củi chuẩn bị từ trước ở các mỏm đá cao. Anh cảm thấy con đường từ nhà tới những đống củi lúc này dài đến vô tận. Anh phải chạy xuyên qua nhiều vạt rừng. Tới khi nhóm được mấy đống củi cháy lên, anh cảm thấy như bị nghẹt thở: thuyền Ơrâu đã căng buồm, còn chiếc tuần dương hạm đã bỏ ra ngoài khơi xa. Clâytơn vội đốt thêm vài đống lửa nữa rồi cởi chiếc sơ mi trắng ra vẫy. Anh buộc chiếc áo vào một chiếc gậy, đưa lên đầu quay thành vòng tròn hối hả. Hai chiếc tàu vẫn lùi ra xa. Clâytơn đã cảm thấy tuyệt vọng. Nhưng những đống lửa lúc đó đã bắt đầu bốc lên những cột khói đen cuồn cuộn. Clâytơn trông thấy trên vọng gác của một con tàu tuần dương có mấy chiếc ống nhòm đang chĩa về phía bờ biển.
Chiếc tàu bắt đầu quay mũi trở lại. Thuyền buồm Ơrâu vẫn đứng nguyên một chỗ. Con tàu tuần dương hướng mũi thẳng vào bờ. Tới một khoảng cách nhất định, nó thả xuống nước một chiếc thuyền con. Khi chiếc thuyền con chèo tới bờ, một sỹ quan trẻ nhảy lên.
– Xin lỗi! Nếu như tôi không nhầm thì ngài là Clâytơn? – Viên sỹ quan hỏi.
– Ơn Chúa vì các ông đã tới – Clâytơn kêu lên – Thế này thì cũng chưa phải là muộn.
– Ông muốn nói thế nào? – Viên sỹ quan hỏi.
Clâytơn liền kể vắn tắt cho viên sỹ quan tất cả những chuyện đã xảy ra và đặc biệt là chuyện Gian Potơrova bị bắt cóc. Anh nói rằng cần phải cấp tốc tìm cô gái.
– Tôi cũng không biết phải làm gì bây giờ, – viên sỹ quan trả lời với giọng thông cảm – Hôm qua thì tôi nghĩ là còn có hy vọng tìm được cô ta. Nhưng để cho tới hôm nay thì… Rừng châu Phi chẳng phải là đất mến khách lắm đâu.
Trong khi hai người nói chuyện, chiếc tuần dương hạm còn thả xuống nước mấy chiếc thuyền con nữa. Clâytơn nhảy lên chiếc thuyền con của viên sỹ quan, ra dẫn chiếc tuần dương hạm bơi tới phía ngôi nhà gỗ. Ở đó giáo sư Potơ và viên trợ lý đang đứng ngóng ra biển. Sau lưng hai ông già là người đàn bà da đen đang ngồi khóc.
Trong chiếc thuyền con bơi vào sau cùng có viên chỉ huy con tàu. Sau khi nghe hết mọi chuyện, ông kêu gọi các thủy thủ tình nguyện tham dự vào đội tìm kiếm cô gái trẻ. Chẳng có thủy thủ nào thờ ơ trong chuyện đi tìm một cô gái. Vì vậy viên thuyền trưởng chỉ chọn trong những người giơ tay lấy khoảng hai chục thủy thủ từng trải và hai viên sỹ quan là trung úy Acnôt và trung úy Trơpintơ. Ông ra lệnh cho một chiếc thuyền ra tàu lấy vũ khí.