Sau đó, hai người mệt mỏi ngủ thiếp đi, đặt chuông đồng hồ lúc sáu giờ sáng.
Thời gian tiếp xúc giữa hai đứa chỉ đủ ăn hết bát cháo. Cả hai đều không nhiều lời cho dù đều biết nhau có nhiều nỗi niềm. Họ đều rất ít thổ lộ.
Trường đại học S nằm ở góc Đông bắc của thành phố, trường rất rộng. Bởi có lịch sử lâu đời, những cây ngô đồng trong trường đều rất cổ kính. Những lớp vỏ cây mỏng thường xuyên bị bỏn trẻ ưu buồn khắc lên đó những dòng chữ sầu não. Hoa anh đào và đinh hương mọc rất tốt, khiến cho ngôi trường đượm vẻ đầm ấm đầy nữ tính. Nhiều toà học đường đã được tu sửa nhiều phen. Quỳnh chỉ rất ưa thích nhà thư viện. Đó là một trong không nhiều những công trình kiến trúc cổ được giữ lại. Quỳnh thường xuyên vào đó, đi trên hành lang đã bạc màu, lên tới tầng cao nhất. Ở đó có một phòng đọc nhỏ, cất giữ rất nhiều tuyển tập tranh vẽ, chỉ được xem tại chỗ. Cô thích thú mùi vị cũ kỹ của chúng. Quỳnh thường tự nhủ, đây là nơi Lục Dật Hán đã từng tới, có lẽ ông đã ngồi chính tại vị trí này, lần giở từng trang tuyển tập. Cô cảm thấy ông đang ngồi đối diện, ngắm nhìn cô trong ánh sáng vàng của buổi sớm. Quỳnh giơ tay ra, để trên mặt bàn, để cho nắng từ bên ngoài chiếu lên tay cô, tạo ra một vùng sáng rực. Phía đối diện chỉ là một chiếc ghế trống. Sáng sớm trong thư viện chỉ có một mình cô, chẳng còn ai khác.
Cô chỉ đi học, đi thư viện, ngoài ra, hầu như không có chút quan hệ nào khác với ngôi trường. Quỳnh thích nhìn những nữ sinh ăn mặc xinh đẹp nhuộm tóc màu cà phê, mặc váy ca rô chéo và áo len cổ cao đơn sắc, giày cổ thấp để lộ đôi mắt cá nhỏ. Họ ôm từng chồng sách dày, không chút vội vàng đi qua thảm cỏ dưới nắng sớm. Họ mỉm cười vừa phải, đủ để toát lên vẻ kiêu hãnh của mình. Có lúc họ đi cùng chàng trai của mình, che giấu đi niềm vui, họ dùng lời nói lơ đễnh để thăm dò trái tim của đối phương. Quỳnh thích thú nhìn ngắm những cô gái đó, cô đã từng tưởng rằng cuộc sống sinh viên đại học của mình cũng là như vậy. Trong những ngày tháng cấp ba tựa hồ như một cuộc chạy đua, Quỳnh đã vô số lần mường tượng đến trường đại học, như một niềm hạnh phúc sẽ đến. Cô ngỡ rằng cuộc sống với tháng năm vô tư bằng trái tim thanh thản, trong sáng. Thế nhưng bây giờ, ngay cả thời gian để soi gương kỹ lưỡng cô cũng không có, huống hồ là lững thững trong sân trường.
Các bạn cùng lớp đều cảm thấy Quỳnh hết sức kỳ quặc, lúc nào cũng rất vội vàng. Ngồi nghe giảng cũng nhấp nha nhấp nhổm. Hầu như cô lúc nào trông cũng mệt mỏi, dùng một tay đỡ lấy đầu, rồi thiếp dần đi. Cô thường xuyên quên đem theo sách vở cần thiết. Trên bàn thường chỉ có mấy tờ giấy trắng rời rạc. Những lúc không ngủ, cô hay ngồi bần thần, kế rồi lại muốn viết cái gì đó. Cô bèn lôi trong ba lô ra vài tờ giấy trắng, cây bút mực, viết hỗn loạn lên đó. Có lúc bỗng nghĩ đến một chi tiết nào đó liền vội vàng viết ra. Chẳng hạn như cô nhớ lại những người trước đây, hoặc giả trong óc bỗng hiện ra một sự vật đã qua. Quỳnh bóp chặt đầu bút, vẽ thật nhanh lên giấy. Đó là thời gian duy nhất cô tin rằng mình vẫn còn niềm khát khao được giãi bày. Sau bao nhiêu việc xảy ra như vậy, có biết bao nhiêu cảm xúc uất kết, đè nặng lên lồng ngực mà cô không thể nói ra, thậm chí còn không thể viết. Cuộc sống bận bịu khiến cô không hề có thời gian để viết, nhưng những con chữ vẫn xuất hiện, tập trung, lắng đọng trong tim cô, như một căn bệnh của riêng Quỳnh. Trong một hoàn cảnh sống dường như không có bạn, không có chuyện trò, có lẽ viết là lý do duy nhất để cô tiếp tục cuộc sống mong manh này.
Có lúc Quỳnh viết ra giấy cả một đoạn thoại dài, không biết là cho ai. Thế rồi trước khi tan học cô lại xé vụn chúng ra, vứt vào thùng rác. Một hôm, cô gái vẫn ngồi học sau lưng Quỳnh bỗng tới ngồi ngay cạnh cô. Cô ta mỉm cười thật ngọt với Quỳnh – đó là một cô gái đẹp, đôi mắt cong cong, chiếc mũi hơi hếch, đôi môi nhỏ. Nước da cô ta trắng tới mức sáng trong. Chiếc áo cổ rộng màu hoa hồng và đầm lửng dệt sợi màu xanh đậm. Đó phải là một cô gái dòng dõi thư hương và hết sức giàu có, luôn mang trong mình cảm giác ưu việt bẩm sinh. Mặc dù đối với người khác rất hoà nhã, nhưng trong cốt cách là một sự kiêu hãnh không che dấu được. Cô ta nói với Quỳnh: “Bạn đang viết gì đấy?“.
“Chẳng có gì, vẽ linh tinh thôi“. Quỳnh lập tức cầm tờ giấy vò nát.
“Mình tên là Lâm Diệu Nghị, còn bạn?” Cô ta nhìn Quỳnh bằng đôi mắt sáng ngời.
“Lục Nhất Quỳnh“. Quỳnh trước sau vẫn có thái độ cự tuyệt với người lạ. Có lẽ là do những trải nghiệm về bạn bè từ thời cấp một. Khái niệm “bạn học” luôn làm cô phải hết sức cảnh giác.
“Ngày nào trông bạn cũng hết sức bận rộn. Bạn không ở nội trú à? Mình ít khi nhìn thấy bạn“. Lâm Diệu Nghị hỏi han nhiệt tình.
“Mình chỉ quen ở nhà thôi“. Quỳnh lạnh lùng trả lời.
“Ừ, mình cũng không ở nội trú. Ký túc xá tệ quá. Mình ở phố Đào Lý…“.
Quỳnh nghe đến ba chữ “phố Đào Lý” không khỏi bất giác rùng mình. Đúng lúc đó thầy giáo cho nghỉ hết giờ. Quỳnh xin lỗi cô gái rồi vội vàng lao ra khỏi lớp.
Ngày nào cũng vậy, Quỳnh luôn là người đầu tiên ra khỏi lớp. Vai đeo ba lô to tướng, tóc buộc bằng sợi thun không màu, mình mặc chiếc T-shirt thùng thình, quần bò và đôi giày ba ta giản dị.
Có lúc đi qua một tấm kính, cô chỉ liếc vội mình một cái – trông cô thật sơ sài, gượng gạo, chẳng có chút mềm mại dịu dàng của phái đẹp. Nếu Ưu Di nhìn thấy cô, cô ấy nhất định sẽ bảo Quỳnh không được ăn mặc trung tính và tạm bợ thế này, nhất là cái quần bò bẩn thỉu. Nhưng mà lúc này Ưu Di đang mặc cái gì? Quỳnh dường như nhìn thấy Ưu Di đang mặc quầo áo lao động màu trắng, dầu mỡ lấm lem, đứng trong gian bếp của nhà tù, tay cầm chiếc xẻng đẫm mỡ nóng hổi, trên khuôn mặt rỏ xuống những giọt mồ hôi to tướng. Nhưng thái độ của Ưu Di hết sức nghiêm túc và chăm chú. Chăm chú một cách sợ hãi, tựa như cô lọ lem ló ra sau bếp lò sau giấc ngủ chập chờn. Quỳnh nghĩ tới đó cảm thấy muốn khóc. Cô gái bé nhỏ vẫn muốn ăn mặc sao cho mình trở nên dịu dàng dễ thương, cô gái vẫn luôn hi vọng cuộc sống tự do ấy, giờ đây luôn phải khoác bộ quần áo lao động màu trắng, hoặc áo tù màu xanh. Sống cuộc sống đầy kỷ luật sau hàng rào sắt.
Cô không ngắm mình nữa, vội vã bước đi.
Khi mùa đông đến, Quỳnh thôi công việc ở siêu thị. Bắt đầu xin làm ở một hiệu sách. Hiệu sách gần quán cà phê hơn, ban ngày Quỳnh ở trong quán sách, buổi tối đi sang quán cà phê, rất thuận tiện. Mặt khác, trong quán sách dĩ nhiên có rất nhiều sách, từ tiểu thuyết nguyên bản tiếng nước ngoài đến tiểu thuyết trong nước, và còn rất nhiều tạp chí. Những lúc không bận rộn, Quỳnh có thể lật xem từng quyển. Bấy giờ, họ đã tích cóp được một ít tiền, Quỳnh mua cho Trác một chiếc xe đạp màu đỏ, cậu không phải vội vàng chạy ra bến xe buýt nữa. Nhưng trường học rất xa, trên đường đi rất lạnh, Quỳnh đi cùng Trác tìm mua cho cậu một chiếc áo nhồi lông vịt, một đôi găng tay xám sọc xanh. Buổi sáng hai đứa cùng ra khỏi nhà, cậu chở cô đi một đoạn đến trạm xe buýt. Quỳnh nhảy xuống nhìn theo bóng Trác đạp đi mất hút. Trác đã trở thành một chàng trai cao 1m82 với đôi vai rộng, nước da trắng và khuôn mặt thanh tú. Cậu trở thành một chàng trai khôi ngô và đáng tin cậy. Quỳnh thích sắm quần áo cho Trác ăn mặc thật tươi mới, thanh nhã. Cậu là toàn bộ hi vọng của Quỳnh, cô muốn dùng đôi tay mình chở che chăm sóc ngọn lửa nhỏ đó. Vì vậy cô cho phép mình lôi thôi luộm thuộm, nhưng không cho phép mình nhìn thấy Trác có chút bùi nhùi. Cô muốn Trác có được mọi thứ như bao bạn bè khác, để cậu vĩnh viễn không bị bạn bè khinh thường, hoặc thậm chí là thương hại. Thực tế quả là như vậy, Trác luôn luôn là một trang thiếu niên tuấn tú và nhân hậu. Chú Dật Hán ở trên cao nếu nhìn thấy sẽ rất an lòng.
Một ngày mùa đông ấm áp, Quỳnh ngồi trong hiệu sách đọc cuốn “Những người khốn khổ“. Cô ngồi trong góc tường gần chỗ toa lté, đọc những cảnh ngộ của nàng Phăng tin. Cô đọc nàng vì sao mất đi mái tóc vàng, vì sao nàng cam tâm để người ta bẻ đi hai chiếc răng cửa. Tất cả là để cho đứa con gái yêu của nàng. Quỳnh lặng lẽ thổn thức. Cô ấy là tấm gương tốt nhất của mình.
Thế nhưng, tình trạng của Quỳnh ngày một tồi tệ hơn. Cuộc sống căng thẳng khiến bệnh cuồng thực của cô lại tấn công lần nữa. Trước đó, cô đã từng ngỡ rằng mình đã triệt để kết thúc được cuộc chiến dài dằng dặc và mệt mỏi với thức ăn.
Dần dần, Quỳnh trở nên trầm lặng và cam chịu, cuộc sống đều đều như cỗ máy. Buổi sáng cô luôn luôn vội vã, không có cả thời gian để ăn sáng. Suốt buổi sáng chạy đi chạy lại, thường là cho đến chiều rời khỏi hiệu sách cô mới ăn gì đó. Lúc đó, cô cảm thấy cực kỳ đói bụng, nhưng nhân viên phục vụ không hề có thời gian nghỉ ngơi, cũng không được chùng xuống lơ đễnh dù chỉ một phút. Mọi người đều nói, làm việc ở quán cà phê, dần dần sẽ vô cảm ovíư cả những chiếc bánh mì mới ra lò thơm phức. Ngửi phải thứ mùi béo ngậy đó thậm chí sẽ buồn nôn. Nhưng Quỳnh là một đứa kém cỏi. Từ đầu đến cuối, cô không hề tỏ ra chán ngán đối với mùi vị bánh mì béo ngậy kia, ngược lại, chúng luôn luôn quyến rũ cô. Quỳnh không biết liệu có khách hàng nào phát hiện ra không. Cô nhân viên phục vụ luôn tỏ ra bình thản và kín đáo kia, mỗi đêm rời khỏi quán cà phê xong, vừa đi vừa ngấu nghiến chỗ bánh thừa nhà hàng phân phát cho nhân viên. Trời đông lạnh giá, gió buốt căm căm. Người nào ở ngoài đường lúc đó cũng che kín mình bằng áo ấm, đôi tay cũng giấu kỹ trong găng dày sụ. Nhưng Quỳnh một tay xách túi ni lông, tay kia cầm đồ ăn đã lạnh ngắt, nhét từng miếng to vào mồm. Cô không đợi được về đến nhà. Cô quá đói, ăn một cách ngấu nghiến và khổ sở. Cô không muốn bị Trác nhìn thấy tình trạng của mình. Quỳnh bây giờ không còn là “chị nhỏ” từng chia sẻ tâm sự với Trác trước kia, cô là người phụ nữ nâng đỡ cuộc sống của cậu. Cô cần có lòng tự trọng không thể để lộ hình dạng tồi tàn như vậy trước mặt cậu. Mỗi lần về đến nhà, Quỳnh đều cảm thấy dạ dày co rút đau đớn. Nhưng cô không để lộ ra ngoài. Trác vẫn ngồi trước bàn đợi cô, trên bàn là cháo cá hoặc súp trứng nóng hổi. Quỳnh chẳng nói gì, chạy ngay vào toa lét, rửa sạch khuôn mặt đầy dấu nước mắt, sau đó mới lặng lẽ bước ra, ngồi xuống ăn những thứ cậu chuẩn bị cho mình. Thực ra dạ dày cô đã căng, nhưng cô vẫn ăn một cách vô vị. Trác thật tội nghiệp, chỉ thấy chị nhỏ mặt lạnh như tiền, chẳng mấy khi nói năng. Có thể cậu tưởng là chị quá đỗi mệt mỏi khiến bữa tối mà cậu dày công chuẩn bị không làm chị thấy vừa ý. Nhưng còn rất nhiều sự việc khác Trác không nhìn thấy được, cũng không được phép biết. Cậu chỉ có thể thấy một chị Quỳnh trầm lặng cắm cúi ăn cơm, rồi quay lưng về phòng.
Xin lỗi Trác, xin lỗi. Nhưng Quỳnh còn có thể làm thế nào nữa? Bây giờ không còn giống trước đây. Hai đứa không còn là những đứa trẻ núp dưới cánh tay che chở của chú Lục Dật Hán. Lúc đó Quỳnh ăn hết mọi thứ trong tủ lạnh, rồi co ro trong một góc mà thổn thức. Thực ra lúc đó cô không tuyệt vọng, không đơn độc. Cô có bé Trác, có chú Dật Hán, có một ngôi nhà to để ẩn mình. Nếu phát hiện ra sau đêm ăn điên cuồng, mặt mũi mình phù thũng khó coi, bộ dạng tàn tạ xấu xí, cô có thể trốn học và giấu mình trong phòng, sau tấm rèm cửa. Như vậy sẽ không còn ai nhìn thấy cô. Nhưng nỗi khổ sở kia có thể dần dần tiêu tan trong góc không gian nho nhỏ của riêng cô, cho đến khi cô hoàn toàn vui vẻ trở lại. Thời gian đó, Quỳnh rất thích sự quan tâm của Trác. Cậu thường đột nhiên xuất hiện mỗi khi Quỳnh có chuyện buồn. Cậu lặng lẽ ngồi xuống trước mặt, như một bức tường thành Athen dưới ánh trăng. Cô chưa bao giờ quên đêm mùa đông hôm đó, Trác đập vỡ con lợn đất của mình, kéo tay cô đi tìm mua sôcôla. Quỳnh là một chị nhỏ vô dụng nhất trên đời, bây giờ cũng vẫn thế. Chỉ có cuộc sống tạm bợ gần đây thôi, chị cũng đã sắp sửa kiệt sức. Bởi thế, chị nhỏ đã không đủ sức để đứng lại giãi bày tâm sự với Trác, nếu không chỉ có thể sẽ là một sự sụp đổ hoàn toàn. Cô biết rõ là nếu dừng lại, cô sẽ không bao giờ bước tiếp được nữa. Phải, Trác không thể biết, trong đêm cô mơ tưởng đến vòng tay của cha cậu, mơ thấy ông hôn lên trán cô, ông khen ngợi cô đã chăm sóc chu đáo em Trác.
Cứ như thế, Quỳnh lăn lộn giữa hai trạng thái đói kém và ăn cuồng. Tâm trạng của cô cũng phập phù lên xuống. Cô không biết liệuu có ai có thể chịu đựng nổi sự u uất và nóng nảy của mình. Cô đành che đậy con người mình lại, đóng kín trong căn phòng mình. Mỗi khi như thế, cô đều tự hỏi phải chăng sự cách biệt này sẽ là chia rẽ tình cảm giữa cô và Trác. Ngày tháng cứ thế trôi qua trong thầm lặng. Cô và Trác ngày càng không biết nói gì với nhau. Trác lén xem vở sáng tác của Quỳnh cũng khiến cô nổi xung thiên. Cậu hết sức kinh ngạc trước phản ứng của Quỳnh, bởi trước đây Quỳnh rất thích Trác đọc truyện do mình viết. Cô thích thú nhìn Trác đọc những dòng chữ nằm trên giấy nhưng vẫn như đang thở dài thật mạnh, khi đó miệng cậu bất giác ngậm rồi lại mở ra. Những âm thanh nhè nhẹ đó thôi cũng là niềm an ủi lớn nhất của cô gái có hoàn cảnh bất hạnh. Thế mà bây giờ lại khác, cô không thể để cho Trác biết cô mềm yếu biết bao. Nếu cậu đọc ra những dòng ấy, cô sẽ lại phải bật khóc. Cô hung hãn giật lấy cuốn vở, nhét phắt vào ba lô của mình. Quỳnh chỉ đành giả vờ như không biết đến ánh mát nghi hoặc và oan ức của Trác.
Quỳnh và Trác đều là những con người hướng nội và rất bướng bỉnh. Sự trầm lặng với nhau này lại có vẻ gióng với một sự ổn định. Những ngày như thế thấm thoát đã được một năm. Những thay đổi tỏng năm này thực ra cũng không nhỏ. Trác học tập xuất sắc, được vào lớp điểm. Tranh sơn dầu tham gia triển lãm của Trác được đoạt giải toàn quốc. Quỳnh trở thành người chuyên viết cho một tạp chí đời thường, vĩnh viễn chỉ quan tâm những đề tài kiểu thời trang của mùa này là gì hoặc những chuyện đời tư của những người nổi tiếng, những chuyên trang thường bàn về phong thuỷ hay tầm quan trọng của đời sống tình dục. Tuy nhiên, nhuận bút của tạp chí này rất cao. Quỳnh thường viết những bài phỏng vấn các diễn viên điện ảnh hoặc ca sĩ. Đó là những chuyện rất xa vời đối với cô, chẳng bao giờ len sâu được vào nội tâm của cô. Điều đó khiến cô tìm được sự an toàn. Quỳnh viết loại bài này đến độ thành thục, thường xuyên được tổng biên tập khen ngợi. Ngoài ra, Quỳnh còn dùng một bút danh không ai biết để viết truyện cho một tạp chí văn học mà cô ưa thích. Ở đó cô viết về những ngôi biệt thự sang trọng, chính là ngôi nhà vấn vương trong mộng mị, nhà số 3 phố Đào Lý.
Người có đôi mắt rực sáng là Ưu Di, cô đứng trong bếp của nhà tù, hát véo von. Mùa xuân lại đến, nhưng tóc cô lại bị cắt ngắn một lần nữa. Có một ngày cô lén rút thỏi son Quỳnh dấu cho mình ra, bôi cẩn thận lên đôi môi bị nứt nẻ, rồi bật cười thoả mãn. Cô bảo rằng bắt đầu thấy thích những màu sắc đậm đặc thế này rồi, bởi vì trông chúng rộn rã như ngày hội. Niềm vui đó đủ để giúp cô sống qua cả một tuần lễ buồn tẻ, thậm chí khi bị một nữ phạm nhân điên khùng bắt nạt, cô cũng không cảm thấy buồn rầu.
Quỳnh cũng đã xem hầu hết sách trong hiệu sách, bèn thôi không làm công ở đó. Quán cà phê cũng mở một quán con ở gần nhà cô hơn, cô đi làm vì vậy gần hơn nhiều. Để việc viết lách được thuận tiện, Quỳnh mua lại một chiếc máy tính xách tay cũ, rất thô và nặng. Nhưng chính chiếc vỏ ngoài dày nặng lại mang đến cho cô cảm giác an toàn dễ chịu. Hơn nữa cô chỉ cần dùng nó để gõ chữ. Quỳnh lúc nào cũng làm việc một cách khẩn trương, cố gắng hoàn thành công việc trong thời gian ngắn nhất. Thời gian buổi đêm tiếp sau, cô có thể viết những gì cô muốn. Tiểu thuyết dần dần đã khiến Quỳnh mê mẩn, bởi chúng nửa thật nửa giả. Những hiện thực tô đắp bởi mộng tưởng và những giấc mộng đầy ắp sự việc đời thường luôn khiến Quỳnh có cảm giác bay lên khỏi mặt đất. Vào những lúc đó, Quỳnh luôn cảm thấy có ai đó đang mang cô đi. Tiểu thuyết trong mắt cô, mỗi chữ đều là một hạt mưa, trông nhẹ bỗng, nhưng một khi chúng lặng lẽ tựu trung vào một nơi, lớn lên thành cả một đám mây nhiều màu mềm mại, Quỳnh phát hiện ra mình đã ở trên mây rồi. Cảm giác khoan khoái khi bất giác được bay lên mây thật giống niềm vui của cô bé Lọ Lem được hoàng tử đón đi, và Quỳnh cứ thế chìm đắm trong đó. Quỳnh dần dần quen với việc từng đêm, từng đêm ngồi gõ từng hàng chữ vào trong máy tính của mình. Âm thanh nho nhỏ mà chiếc máy phát ra tựa như những hồi đáp về những tâm sự đang được giãi bày. Cô thấy xúc động.