Rồi ông nghĩ về vợ mình, và đoạn đời sống cùng bà lúc này dường như bị nhấn chìm trong một vùng sáng dịu mờ mờ, và chỉ thi thoảng một thứ gì đó mới hiện lên từ lớp sương mù trắng đục như sữa đó: mái tóc sáng màu của bà dưới ngọn đèn rực rỡ, ánh sáng trên khung một bức tranh, bé Irma chơi với những viên bi thủy tinh (viên nào cũng có cầu vồng bên trong), và sau đó lại là lớp sương mù – và những cử động của Elisabeth nhẹ nhàng, gần giống như đang trôi nổi.
Mọi thứ, kể cả những gì buồn bã đáng hổ thẹn nhất trong quá khứ, đều bị vẻ quyến rũ lừa dối của sắc màu đè lên. Ông kinh hãi nhận ra mình sử dụng đôi mắt mới ít làm sao – vì những sắc màu này di chuyển ngang qua một nền quá mờ ảo và đường nét của chúng nhòe nhoẹt một cách kỳ lạ. Nếu, chẳng hạn như, ông nhớ lại về cảnh vật nơi ông từng sống, ông cũng không thể kể được tên một loài thực vật nào ngoài cây sồi và hoa hồng, cũng như không kể được tên một loài chim nào ngoài sẻ và quạ, và thậm chí trong mắt ông chúng giống hình vẽ trên huy hiệu hơn là giống ngoài đời. Giờ đây Albinus ý thức được rằng ông thật ra không khác gì một chuyên gia ngành hẹp từng bị ông nhạo báng, ông không khác gì một người thợ chỉ biết đến công cụ của mình, hay một danh cầm chỉ như một phụ tùng bằng xương thịt cho cây vĩ cầm của mình. Chuyên môn của Albinus chính là niềm say mê nghệ thuật, khám phá lớn nhất của ông chính là Margot. Nhưng giờ đây, những gì còn lại về cô chỉ là giọng nói, tiếng sột soạt và mùi hương, cứ như thể cô đã quay trở vào bóng tối của rạp chiếu bóng nhỏ xíu nơi trước đó ông từng lôi cô ra.
Nhưng Albinus không thể mãi tự an ủi bản thân bằng những suy ngẫm về mỹ học và đạo đức; ông cũng không thể thành công mãi trong việc tự thuyết phục mình rằng sự mù lòa thể chất lại là thị năng tinh thần; ông đã cố tự lừa dối một cách vô ích bằng ảo giác rằng cuộc sống của ông với Margot giờ đây hạnh phúc hơn, sâu sắc và trong sáng hơn, và cũng vô ích khi ông tập trung suy nghĩ về sự hy sinh đáng cảm động của cô. Dĩ nhiên điều đó đáng cảm động, dĩ nhiên cô ấy tốt hơn bà vợ trung thành nhất – cái cô nàng Margot vô hình này, vẻ dịu mát thiên thần này, giọng nói van xin ông đừng nổi nóng này. Nhưng ngay khi ông vừa nắm tay cô trong bóng tối, ngay khi ông vừa cố thể hiện lòng biết ơn của mình thì đột nhiên trong ông khơi lên niềm khao khát được nhìn thấy cô mạnh mẽ đến độ mọi việc luân lý hóa của ông đều tan biến mất.
Rex rất thích ngồi cùng phòng với ông và quan sát các cử động của ông. Margot, trong khi vừa ép người vào ngực lão mù vừa đẩy vai ông ra, đưa mắt nhìn lên trần nhà với vẻ cam chịu đầy hài hước hoặc thè lưỡi về phía Albinus – điệu bộ này của cô đặc biệt buồn cười và tương phản với vẻ mặt vừa cuồng dại vừa âu yếm của lão mù. Sau đó, bằng một động tác khéo léo, Margot thoát khỏi vòng tay ông ta và rút về phía Rex lúc này đang ngồi trên bệ cửa sổ, mặc quần dài màu trắng, với đôi bàn chân có những ngón dài và ngực để trần – hắn thích nướng lưng mình dưới ánh mặt trời. Albinus ngồi sâu trong ghế bành, người bọc trong bộ đồ ngủ và chiếc áo khoác ở nhà. Mặt phủ một lớp râu ngắn tua tủa, một vết sẹo màu hồng lấp lóa trên thái dương, trông ông giống như kẻ tù tội râu ria.
“Margot, lại đây với anh nào,” ông van nài, dang rộng hai cánh tay.
Vốn là kẻ thích mạo hiểm, thi thoảng Rex nhón đôi chân trần tiến đến khá gần Albinus và chạm vào ông với sự tinh vi tột bậc. Albinus liền thốt lên một tiếng ư ử âu yếm và cố ôm lấy người ông tưởng là Margot, còn Rex thì không một tiếng động bước tránh sang một bên và quay lại bệ cửa sổ – vị trí an tọa quen thuộc của hắn.
“Em yêu, lại gần anh nào,” Albinus rên rỉ, loạng choạng đứng lên khỏi ghế bành và mò mẫm đi về phía cô. Trên bệ cửa sổ Rex co chân lên, còn Margot quát Albinus và tuyên bố sẽ ngay lập tức để ông cho cô y tá trông, nếu ông không làm theo lời cô. Thế là ông lê bước trở lại chỗ của mình với nụ cười của kẻ mắc lỗi.
“Được rồi, được rồi,” ông thở dài. “Đọc cái gì cho anh nghe đi. Đọc báo ấy.”
Cô lại ngước mắt lên trần nhà.
Rex thận trọng ngồi xuống xô pha và bế Margot vào lòng. Cô mở tờ báo ra, và sau một hồi vuốt vuốt trang báo và miệt mài nghiên cứu, cô bắt đầu đọc to lên. Albinus vừa thi thoảng gật đầu vừa chậm rãi ăn những trái anh đào vô hình, nhổ những hạt đào vô hình vào lòng bàn tay. Rex bắt chước Margot, hắn bĩu môi và rồi lại thu môi lại giống khi cô đọc. Hoặc hắn giả vờ sắp làm cô ngã, để giọng đọc của cô đột ngột ré lên và cô phải tìm lại chỗ cuối câu vừa bị ngắt quãng.
“Ừ, có lẽ như thế lại hay,” Albinus nghĩ. “Tình yêu đôi ta giờ trong sáng và cao quý hơn. Nếu cô ấy luôn ở bên mình lúc này, điều đó có nghĩa là cô ấy thực sự yêu mình. Thế lại hay, thế lại hay.” Và đột nhiên ông bắt đầu khóc nức nở thành tiếng, ông bóp vặn hai tay mình van xin cô dẫn ông đi khám thêm một chuyên gia nữa, rồi chuyên gia thứ ba, thứ tư – phẫu thuật, tra tấn – bất cứ việc gì có thể phục hồi thị lực của ông.
Rex ngáp không thành tiếng và bốc một nắm trái anh đào từ chiếc bát trên bàn rồi đi ra vườn.
Trong những ngày đầu tiên sống chung, Rex và Margot giữ thận trọng đúng mức, dù họ thỏa thích chơi đủ các loại trò đùa vô hại. Để phòng ngừa trường hợp khẩn cấp, phía trước cánh cửa từ phòng hắn ra hành lang, Rex dựng một đống thùng hộp làm chướng ngại vật, và ban đêm Margot phải vất vả trèo qua đó. Tuy nhiên, sau chuyến dạo chơi quanh nhà đầu tiên, Albinus không còn quan tâm đến địa hình của nó nữa, nhưng ông đã tự xác định được phương hướng trong phòng ngủ và trong phòng làm việc.
Margot mô tả mọi màu sắc cho ông nghe – giấy dán tường màu xanh da trời, tấm rèm cửa màu vàng – nhưng, bị Rex xúi giục, cô thay hết tên màu sắc. Việc ông mù bị buộc phải hình dung thế giới nhỏ bé của ông trong gam màu do chính hắn vẽ ra mang đến cho Rex niềm vui thú tuyệt hảo.
Trong phòng riêng của mình, Albinus gần như có cảm giác nhìn thấy được nội thất và nhiều đồ đạc khác nhau, và điều này làm ông thấy an toàn. Nhưng khi ngồi trong vườn, ông lại thấy bị vây quanh bởi một rừng ẩn số, vì mọi thứ đều quá rộng lớn, quá mờ ảo, quá đầy âm thanh đến độ không cho phép ông tạo nên một bức tranh về nó. Ông cố luyện để thính giác mình nhạy hơn và cố thử tiên đoán chuyển động dựa vào âm thanh. Chẳng bao lâu sau, chuyện đi ra đi vào mà không bị phát hiện trở nên khá khó khăn cho Rex. Dù hắn có cố đi ngang qua mà không gây bất cứ tiếng động đến đâu, Albinus vẫn lập tức quay đầu về hướng đó mà hỏi: “Em đấy à, em yêu?” và nếu Margot đáp lại từ một góc khác hẳn, ông liền thấy bực dọc vì đoán sai.
Nhiều ngày tháng trôi qua, Albinus càng căng tai nghe ngóng tinh tường hơn thì Rex và Margot càng táo bạo hơn: họ đã quen với bức màn che an toàn làm bằng sự mù lòa của ông, nên thay vì ăn trong bếp dưới cái nhìn chăm chăm tôn sùng câm lặng của bà già Emila như ban đầu, Rex bây giờ bày đặt ngồi ăn ngay cùng bàn với họ. Hắn có khả năng ăn không gây tiếng động đến mức siêu đẳng, hắn không bao giờ chạm vào đĩa bằng dao nĩa, và nhai nuốt như trong một bộ phim câm, hòa nhịp với chuyển động cơ hàm của Albinus và với cả nhạc điệu rộn ràng trong giọng nói của Margot đang cố tình nói chuyện rất to khi hai người đàn ông kia nhai và nuốt. Có lần hắn bị nghẹn; Albinus đang được Margot rót cho một tách cà phê, bỗng nghe thấy ở cuối bàn nổ ra một âm thanh lạ lùng, một tiếng khục đê tiện. Margot kịp thời ba hoa ngay tức thì, nhưng ông ngắt lời cô, tay giơ lên: “Cái gì thế? Cái gì thế?”
Rex đã cầm lấy đĩa của mình và nhón chân đi ra ngoài, mồm ngậm khăn ăn. Nhưng khi lách qua cánh cửa mở nửa chừng, hắn đánh rơi chiếc nĩa.
Albinus vụt xoay người trên ghế. “Cái gì thế? Ai đó?” ông nhắc lại.
“Ồ chỉ là bà Emila thôi mà. Sao anh chộn rộn thế?”
“Nhưng bà ấy không bao giờ vào đây cơ mà.”
“Thì hôm nay bà ấy vào.”
“Anh nghĩ là tai mình bắt đầu có những hoang tưởng,” Albinus nói. “Hôm qua chẳng hạn, anh có cảm tưởng rõ ràng rằng ai đó chân trần đang lén đi dọc hành lang.”
“Không cẩn thận anh sẽ hóa điên đấy,” Margot khô khan đáp.
Vào buổi chiều lúc Albinus ngủ, cô đôi khi đi dạo với Rex. Họ đi lấy thư và báo ở bưu điện hay leo lên thác nước – và một vài lần họ đến quán cà phê ở thị trấn nhỏ xinh phía dưới. Một lần trên đường về nhà, lúc đã dấn bước vào lối dốc dẫn đến ngôi nhà tranh, Rex nói:
“Anh khuyên em không nên nài nỉ chuyện đám cưới. Anh rất e ngại là, chỉ vì bỏ rơi vợ mình, ông ta sẽ đến lúc coi bà ta như một vị thánh cao quý vẽ trên kính. Ông ta sẽ không dám nghiền nát khung cửa kính nhà thờ đó. Dần dần chiếm đoạt tài sản của ông ta sẽ là một kế hoạch đơn giản và hay hơn.”
“Hừm, chúng ta đã kiếm được một khoản khá lớn rồi, không phải sao?”
“Em phải làm sao cho ông ta bán đất ông ta có ở Pomerania và các bức tranh của mình,” Rex nói tiếp, “nếu không thì một trong mấy ngôi nhà của ông ta ở Berlin. Chỉ cần láu cá một chút chúng ta sẽ tìm ra cách làm. Còn hiện tại cuốn sổ séc đang đáp ứng nhu cầu một cách mỹ mãn rồi. Ông ta ký mọi giấy tờ như cái máy – nhưng tài khoản nhà băng của ông ta sẽ chẳng mấy chốc mà cạn. Chúng ta cũng phải làm gấp thôi. Sẽ rất hay nếu chúng ta bỏ rơi ông ta vào, xem nào, mùa đông này chẳng hạn – và trước khi đi chúng ta sẽ mua tặng ông ta một con chó – như một cử chỉ nho nhỏ tỏ lòng biết ơn.”
“Anh đừng nói to thế,” Margot nói, “chúng ta đã đến chỗ tảng đá rồi.”
Tảng đá to màu xám này mọc đầy dây bìm bìm và trông giống một con cừu; nó đánh dấu biên giới mà vượt qua sẽ là khu vực nguy hiểm, cấm nói chuyện. Vì thế họ bước trong im lặng và sau vài phút đến gần cổng vườn. Margot đột nhiên cười phá lên và chỉ tay về phía một con sóc. Rex liệng một hòn sỏi vào con vật nhưng bị trượt.
“Ồ, cho nó chết đi – bọn này rất hay phá hại cây cối,” Margot khẽ nói.
“Ai phá hại cây cối?” một giọng oang oang hỏi. Đó là Albinus.
Ông đang đứng, người khẽ đung đưa, giữa bụi cây hoa đình trên một bậc đá nhỏ dẫn từ lối đi đến bãi cỏ.
“Margot, em đang nói chuyện với ai dưới đó thế?” ông hỏi tiếp. Bỗng nhiên ông bị vấp và đánh rơi cây gậy, rồi ông nặng nề ngồi xuống bậc thềm.
“Làm sao anh dám một mình lang thang xa đến vậy?” cô hét lên rồi thô bạo tóm lấy ông và giúp ông đứng dậy. Vài viên sỏi nhỏ dính ở tay ông, ông xòe tay cố phủi chúng đi, như bọn trẻ con vẫn làm.
“Em muốn bắt một con sóc,” Margot giải thích và dúi gậy vào tay ông. “Thế anh nghĩ em đang làm gì hử?”
“Anh tưởng tượng…” Albinus bắt đầu giải thích. “Ai ở đó thế?” ông hét váng lên, suýt mất thăng bằng lần nữa khi xoay về hướng Rex lúc này đang rón rén đi qua bãi cỏ.
“Không có ai cả,” Margot nói, “chỉ có mình em thôi. Sao anh lại như thế này?” Cô cảm thấy mất kiên nhẫn.
“Dẫn anh quay vào nhà nào,” ông nói gần như khóc. “Ở đây có quá nhiều âm thanh. Cây cối, gió thổi, đám sóc, và những thứ anh không kể tên ra được. Anh không biết chuyện gì đang xảy ra xung quanh mình nữa… Thật ồn ào quá.”
“Từ bây giờ anh sẽ bị nhốt trong nhà,” cô nói, đoạn kéo ông vào nhà.
Rồi, như thường lệ, mặt trời lặn phía sau đỉnh đồi cạnh nhà. Như thường lệ, Margot và Rex ngồi bên nhau hút thuốc trên xô pha, và khoảng năm sáu mét từ chỗ họ, Albinus ngồi trong chiếc ghế bành bọc da, đăm đăm nhìn họ không chớp với đôi mắt màu xanh sữa. Theo yêu cầu của ông, Margot kể cho ông nghe về tuổi thơ của cô. Cô khá thích làm việc đó. Ông đi ngủ sớm, chậm rãi leo cầu thang và dò dẫm từng bậc bằng ngón chân và cây gậy.
Giữa đêm ông tỉnh dậy sờ soạng mặt không che kính của đồng hồ báo thức, cho đến khi tìm được vị trí của kim đồng hồ. Lúc đó khoảng một giờ rưỡi. Một cảm giác khó chịu kỳ lạ tràn ngập trong ông. Gần đây có điều gì đó đã ngăn cản ông tập trung vào những suy tư bi ai và đẹp đẽ, mà chỉ riêng mình chúng có thể che chở ông trước nỗi kinh hoàng của sự mù lòa.
Ông nằm mà ngẫm nghĩ: “Chuyện gì vậy nhỉ? Elisabeth chăng? Không, cô ấy rất xa nơi này. Cô ấy ở tít phía dưới, một chỗ nào đó. Một cái bóng thân thương, nhợt nhạt, buồn bã mà mình không bao giờ được phép khuấy động. Margot ư? Không, cái tình trạng quan hệ anh trai em gái này chỉ là tạm thời. Thế đó là chuyện gì đây?”
Gần như không biết mình muốn gì, ông rón rén ra khỏi giường và dò dẫm tìm đến cửa phòng Margot (phòng của ông không có lối ra nào khác). Cô luôn khóa cánh cửa đó vào ban đêm và vì thế ông bị nhốt bên trong.
“Cô ấy mới sáng suốt làm sao,” ông âu yếm nghĩ, và ghé tai vào lỗ khóa, hy vọng nghe thấy tiếng cô thở trong giấc ngủ. Nhưng ông chẳng nghe thấy gì hết.
“Lặng thinh như chú chuột con vậy,” ông thì thầm. “Giá mình được vuốt tóc cô ấy thôi rồi đi ngay. Biết đâu cô ấy quên khóa phòng.”
Không hy vọng gì nhiều, ông ấn then chốt cửa. Không, cô ấy không quên.
Bất chợt ông nhớ đến một đêm mùa hè oi bức khi còn là gã trai mặt đầy trứng cá, ông từng vất vả leo dọc đường gờ của ngôi nhà trên bờ sông Rhine, từ phòng ông đến phòng của cô hầu (chỉ để phát hiện ra cô ta không ngủ một mình) – nhưng lúc đó ông còn nhẹ cân và nhanh nhẹn, lúc đó ông còn nhìn được.
“Sao mình lại không thử nhỉ?” ông nghĩ với lòng táo bạo ngậm ngùi. “Và dù mình bị ngã gãy cổ thì cũng có sao nào?”
Trước hết ông tìm ra cây gậy của mình, nghiêng người qua cửa sổ, dùng gậy dò dẫm về bên trái, qua bệ cửa sổ cho đến cửa sổ kế bên. Cửa sổ đó đang mở ra và ô kính kêu lanh canh khi gậy của ông chạm vào.
“Cô ấy ngủ mới say làm sao!” ông nghĩ. “Chắc là kiệt sức vì phải chăm sóc mình suốt cả ngày.”
Khi ông rút gậy lại, ông làm nó vướng vào vật gì đó. Nó trượt khỏi nắm tay ông và rơi xuống đất gây ra một tiếng thịch nhẹ.
Albinus bám lấy khung cửa sổ rồi trèo lên ngưỡng cửa ra bên ngoài, lần về bên trái dọc theo đường gờ, tay túm chặt vào vật hẳn là ống nước, bước qua chỗ ngoặt của lớp vỏ sắt lạnh toát và bám vào bệ cửa sổ phòng kế bên.
“Thật đơn giản làm sao!” ông nghĩ, chẳng phải không thấy tự hào, và “Chào em, Margot,” ông khẽ nói trong khi cố bò vào qua cửa sổ để mở. Ông bị trượt chân và suýt ngã ngược vào chốn trừu tượng dưới khu vườn. Tim ông đập dữ dội. Ông quẫy người qua thành cửa sổ để vào phòng và một vật nặng bị ông làm xê dịch rơi ầm xuống đất.
Ông đứng yên không động đậy. Mặt ông đầm đìa mồ hôi. Ông cảm thấy vật gì đó dinh dính trong tay (đó là nhựa rỉ ra từ gỗ thông dùng để xây ngôi nhà).
“Margot, em yêu,” ông hân hoan gọi. Im lặng. Ông tìm thấy cái giường. Nó được phủ một tấm ga đăng ten – chưa có ai ngủ trên đó.
Albinus ngồi xuống giường và ngẫm nghĩ. Giá như chăn gối mở tung và ấm áp thì dễ hiểu, cô sẽ quay lại trong chốc lát.
Vài giây sau, ông ra được ngoài hành lang (bị chậm bước nhiều vì không có gậy) và lắng nghe. Ông tưởng mình nghe thấy ở đâu đó một tiếng trầm như bị bóp nghẹt – một âm thanh nào đó giữa tiếng cọt kẹt và tiếng sột soạt. Tình thế bắt đầu trở nên huyền bí. Ông gọi với ra:
“Margot, em ở đâu?”
Mọi thứ vẫn im ắng. Rồi một cánh cửa mở ra.
“Margot, Margot,” ông lặp lại, dò dẫm đi tiếp xuống hành lang.
“Vâng vâng, em ở đây,” giọng cô bình thản trả lời.
“Chuyện gì xảy ra vậy, Margot? Tại sao em chưa đi ngủ?”
Cô xô vào ông trong lối đi tối om, và khi chạm vào cô, ông cảm thấy cô không mặc quần áo.
“Em đang nằm phơi nắng,” cô nói, “như em vẫn luôn làm vào buổi sáng mà.”
“Nhưng giờ là ban đêm,” ông kêu lên trong hơi thở nặng nề. “Anh không thể hiểu được. Có điều gì đó vô lý đâu đó. Anh biết thế vì anh sờ được kim đồng hồ. Bây giờ là một giờ rưỡi.”
“Vớ vẩn. Bây giờ là sáu giờ rưỡi và đang giữa một buổi sáng nắng đẹp. Đồng hồ của anh chắc chạy sai. Anh hay sờ kim đồng hồ quá đấy. Nhìn đây – bằng cách nào anh ra được khỏi phòng mình?”
“Margot, bây giờ thực sự là buổi sáng sao? Em nói thật chứ?”
Cô đột nhiên đến gần ông, kiễng chân vòng tay quanh cổ ông như cô vẫn hay làm trước đây.
“Cho dù bây giờ là ban ngày,” cô nhẹ nhàng nói, “nếu anh thích, nếu anh thích, anh yêu… đây là một ngoại lệ đặc biệt…”
Cô không muốn làm chuyện đó lắm, nhưng chỉ còn cách này. Giờ thì Albinus không thể nhận ra trời vẫn còn lạnh và không có con chim nào ca hót, bởi vì ông chỉ cảm nhận được một thứ – niềm hạnh phúc mãnh liệt bốc lửa – và sau đó ông chìm vào giấc ngủ say và ngủ đến tận trưa. Khi ông tỉnh dậy, Margot mắng mỏ ông vì chiến công leo trèo đó, cô còn giận dữ hơn khi nhìn thấy nụ cười ủ rũ của ông và tát lên má ông.
Cả ngày hôm đó ông ngồi trong phòng khách, suy nghĩ về buổi sáng hạnh phúc của mình và tự hỏi còn phải đợi bao nhiêu ngày nữa thì niềm hạnh phúc này sẽ lặp lại. Đột nhiên, khá rõ ràng, ông nghe ai đó phát ra một tiếng ho đáng ngờ. Không thể là Margot. Ông biết cô đang ở trong bếp.
“Ai đó?” ông hỏi.
Nhưng không ai trả lời.
“Lại một ảo giác!” Albinus mệt mỏi nghĩ, và rồi ngay lập tức ông hiểu ra điều gì làm ông lo lắng đến thế nào ban đêm – đúng rồi, đúng rồi, đó là những âm thanh lạ lùng mà đôi khi ông nghe thấy.
“Nói cho anh nghe đi, Margot,” ông nói khi cô quay lại, “không có ai ngoài bà Emilia ở trong nhà chứ? Em có chắc không?”
“Anh điên à!” cô trả lời cộc lốc.
Nhưng một khi sự nghi ngờ được khơi lên, nó không chịu để ông yên lúc nào. Ôm ngồi im cả ngày và nghe ngóng trong phiền muộn.
Chuyện này làm Rex rất vui thú, và dù Margot đã nài nỉ hắn thận trọng hơn, hắn chẳng để tâm đến lời cảnh báo của cô. Thậm chí có lần, khi chỉ cách Albinus vài bước, hắn bắt đầu khéo léo huýt sáo như một chú chim vàng anh. Margot phải giải thích rằng có chú chim đang đậu trên ngưỡng cửa sổ và đang hót ở đó.
“Xua nó đi,” Albinus nghiêm nghị yêu cầu.
“Suỵt, suỵt,” Margot nói, đặt tay lên cặp môi đầy đặn của Rex.
“Em có biết không,” vài ngày sau đó Albinus nói, “anh muốn nói chuyện với bà Emilia. Anh thích bánh pút đinh của bà ấy.”
“Chắc chắn không thể được rồi,” Margot đáp. “Bà ấy điếc khá nặng và còn sợ anh đến chết.”
Albinus nghĩ rất lung trong vài phút.
“Không thể được,” ông chậm rãi nói.
“Cái gì không thể được vậy, anh Albert?”
“Ồ, không có gì,” ông thì thầm, “không có gì đâu.”
“Em có biết không, Margot,” một lúc sau ông lên tiếng. “Anh đang rất cần cạo râu. Em gọi một người thợ cắt tóc từ dưới làng đến đi.”
“Không cần thiết đâu,” Margot nói. “Bộ râu này rất hợp với anh.”
Albinus tưởng như một ai đó – không phải Margot mà ai đó cạnh cô – đang khẽ cười khúc khích.