Đúng là may mắn, nhà thờ Thánh Mary mở cửa, và phần nội thất được ốp gỗ sẫm màu của nó phả ra mùi sáp và mùi bụi bặm của những thứ đồ gỗ bọc vải. Hai phụ nữ lớn tuổi đội mũ có gắn hoa giả đang đứng cắm hoa thật trên bệ thờ chạm trổ phía trước. Cha bước vào, khá lúng túng, ngồi xuống một ghế dài cuối dãy, từ đó cha có thể quan sát được các cửa ra vào mà không bị người đi vào phát hiện. Đó là một cuộc chờ đợi dài, nhưng giáo đường yên tĩnh và tiếng nói chuyện rì rầm của hai người phụ nữ làm cha thấy nguôi ngoai phần nào. Lần đầu tiên cha bắt đầu cảm thấy mỏi mệt trong vòng từ đêm hôm qua đến giờ. Sau cùng, cánh cửa trước cũng bật mở, xoay trên những chiếc bản lề đã chín mươi năm tuổi, và Helen Rossi đứng đó, ngập ngừng trong giây lát, nhìn về phía sau, rồi bước vào.
Nắng từ cửa sổ hai bên như hắt lên y phục cô ta ánh màu lam và tim tím. Cha thấy cô ta đảo mắt nhìn quanh lối đi vào. Không thấy ai, cô ta bước tới. Cha cố tìm xem có cái gì đó giả dối, một nét nhăn mặt ác độc hoặc chút thay đổi trên màu da mặt lạnh lùng đó – bất cứ gì, cha không biết rõ là gì, có thể cho thấy sự dị ứng với nhà thờ Công giáo, kẻ thù từ xa xưa của Dracula. Nhưng đằng nào thì có lẽ cái tòa phế tích thời Victoria này cũng chẳng thể xua đuổi các thế lực hắc ám được, cha ngờ vực nghĩ. Nhưng giáo đường này rõ ràng có một sức mạnh nội tại nào đó tác động lên Helen Rossi, bởi chỉ sau một lúc, cô ta đã bước qua chùm ánh sáng rực rỡ màu sắc hắt xuống từ cánh cửa sổ tiến về bức tường phía trước. Cha cảm thấy xấu hổ vì hành động như thể rình mò của mình khi nhìn thấy cô ta cởi bao tay, nhúng bàn tay vào chậu nước thánh rồi làm dấu thánh. Cử chỉ đó rất dịu dàng, khuôn mặt cô ta, nhìn từ chỗ cha ngồi, trông rất nghiêm nghị. Thôi thì, cha đang làm việc này vì thầy Rossi. Và bây giờ, cha hoàn toàn biết rõ Helen Rossi không phải là một vrykolakas – ma cà rồng, dù diện mạo cô ta có phần khó ưa và đôi khi quái gở.
Cô ta bước vào gian giữa và khựng lại, dợm lui một chút khi thấy cha bước đến. “Anh có mang theo những lá thư đấy chứ?” cô ta thì thầm, nhìn cha bằng ánh mắt quan tòa. “Chừng một tiếng nữa tôi phải về khoa.” Cô ta lại liếc quanh.
“Có gì không ổn sao?” cha hỏi ngay, sởn gai ốc vì cảm giác bồn chồn không lý giải được. Có vẻ như hai ngày nay trong cha đã phát triển được một loại giác quan thứ sáu bệnh hoạn nào đó. “Cô sợ cái gì à?”
“Không,” cô ta trả lời, giọng vẫn thì thầm. Cô ta nắm chặt đôi bao trong một tay, chúng trông giống một đóa hoa trên nền bộ y phục màu đen của cô. “Tôi chỉ ngạc nhiên – có ai đó vừa mới đi vào phải không?”
“Đâu có.” Cha cũng liếc nhìn quanh. Giáo đường vẫn vắng vẻ một cách dễ chịu, chỉ có hai phụ nữ đang chăm chút bệ thờ.
“Có ai đó đi theo tôi,” cô ta nói, vẫn với giọng thì thầm. Khuôn mặt cô ta, bao bọc giữa những lọn tóc đen dày, mang một nét biểu lộ kỳ lạ, pha trộn giữa sự ngờ vực và vẻ can đảm giả tạo. Lần đầu tiên, cha băn khoăn tự hỏi cô ta phải trả giá bằng cái gì mới học được cái kiểu cách can đảm của riêng mình như thế. “Tôi nghĩ hắn đang theo dõi tôi. Một gã cao, ốm, quần áo lôi thôi – áo khoác vải tuýt, cà vạt màu xanh lá cây.”
“Cô chắc chứ? Cô thấy hắn ở đâu?”
“Ở bộ phận danh mục thẻ,” cô ta nói, giọng có phần yếu ớt. “Tôi đến đó để kiểm tra chuyện anh nói về những tấm thẻ thất lạc. Đơn giản vì tôi không tin chuyện đó.” Cô ta nói thẳng băng, chẳng cần quanh co rào đón. “Tôi thấy hắn ở đó, sau đó tôi biết là hắn đi theo tôi, nhưng giữ khoảng cách khá xa, suốt phố Elm. Anh biết hắn chứ?”
“Phải,” cha trả lời, vẻ rầu rĩ. “Đó là tay thủ thư.”
“Một thủ thư?” Có vẻ như cô ta chờ đợi cha nói tiếp, nhưng cha chưa thể tiết lộ phát hiện của mình về vết thương trên cổ hắn cho cô ta biết. Chuyện này quá khó tin, quá kỳ quặc; nếu nói ra, chắc chắn cô ta sẽ cho là cha bị tâm thần.
“Gã có vẻ nghi ngờ hành tung của tôi. Cô phải tuyệt đối tránh xa gã,” cha nói. “Tôi sẽ nói thêm về gã sau. Thôi nào, hãy ngồi xuống và thoải mái đi. Đây là những lá thư.”
Cha để cô ta ngồi trên một ghế nệm dài bọc nhung rồi mở cặp ra. Mặt sáng bừng lên ngay, cô cẩn thận mở phong bì, và gần như cung kính khi lấy những lá thư ra, giống như cha đã làm vào ngày hôm qua. Cha chỉ có thể băn khoăn tự hỏi cô ta có cảm giác gì khi nhìn thấy những dòng chữ viết tay của người cô ta cho là cha mình, người mà trước giờ cô chỉ biết đến như một nguồn cơn gây giận dữ. Cha nhìn lá thư qua đôi vai cô ta. Phải, những dòng chữ viết tay mạnh mẽ, nét đẹp, ngay thẳng của thầy Rossi. Có lẽ, chúng đã khiến ông dường như lờ mờ hiện hữu giống một người bình thường hơn trong mắt con gái ông. Sau đó, cha đứng dậy, nghĩ mình nên chấm dứt cái nhìn dò xét này. “Giờ tôi đi loanh quanh đây và sẽ để cô ở một mình, bao lâu tùy cô. Nếu có điều gì tôi có thể giải thích hoặc giúp cô thì…”
Cô ta lơ đãng gật đầu, dán mắt đọc lá thư thứ nhất, và cha bước đi. Cha có thể thấy cô đang thận trọng cầm những tờ giấy quý giá của cha, và đọc rất nhanh những dòng chữ của thầy Rossi. Trong khoảng nửa giờ, cha ngắm nhìn những nét chạm khắc trên bệ thờ, những bức tranh trong nhà nguyện, những tấm rèm có tua viền tại bục giảng, bức tượng cẩm thạch mô tả một người mẹ kiệt sức, trong tay bồng một đứa bé. Một trong các bức tranh đặc biệt thu hút sự chú ý của cha là bức mô tả Lazarus(1)_ trong bộ dạng kinh tởm, vẽ theo trường phái Tiền Raphael, đang được các bà chị dìu đi lảo đảo ra khỏi hầm mộ, mắt cá chân màu xanh-xám, trong bộ quần áo tẩm liệm dơ dáy. Khuôn mặt đã phai màu sau một thế kỷ chịu đựng khói hương, trông có vẻ cay đắng và buồn nản, như thể biết ơn là điều cuối cùng ông cảm thấy khi bị triệu về từ nơi an nghỉ của mình. Chúa Jesus, vẻ sốt ruột, đứng ở lối vào hầm mộ, cầm tay ông ta, có dáng dấp ma quái, tham lam và ghê gớm. Cha chớp mắt, quay đi. Việc thiếu ngủ rõ ràng đang đầu độc đầu óc cha.
“Tôi đọc xong rồi,” Helen Rossi lên tiếng phía sau cha. Giọng yếu ớt, trông cô ta xanh xao và mỏi mệt. “Anh nói đúng,” cô ta tiếp tục. “Chẳng có gì đề cập đến việc dan díu giữa ông ta và mẹ tôi, thậm chí cả chuyến đi đến Rumani của ông ta. Anh đã nói thật về chuyện đó. Tôi không hiểu. Chuyện ắt hẳn phải xảy ra trong cùng khoảng thời gian đó, chắc chắn cùng với chuyến đi tới châu Âu lục địa của ông ta, bởi vì tôi ra đời chín tháng sau đó.”
“Tôi rất tiếc.” Gương mặt với sắc da sậm màu của cô ta không lộ vẻ cầu xin lòng thương cảm, nhưng cha cảm nhận được điều đó. “Tôi cũng mong có được vài manh mối để giúp cô, nhưng cô thấy sự việc ra sao rồi đấy. Tôi cũng không giải thích nổi.”
“Ít ra chúng ta cũng tin tưởng nhau, đúng không nào?” Cô ta nhìn thẳng vào cha.
Cha ngạc nhiên khi phát hiện ra mình có thể cảm nhận được niềm vui hiện diện giữa toàn bộ nỗi đau buồn và lòng cảm thông này. “Chúng ta tin tưởng nhau ư?”
“Vâng. Tôi không biết liệu có gì đó gọi là Dracula hiện hữu thật sự hay không, cũng không biết Dracula cụ thể là cái gì, nhưng tôi tin anh khi anh nói ông Rossi – cha tôi – cảm thấy bản thân ông đang gặp nguy hiểm. Rõ ràng, ông ấy đã cảm thấy điều đó từ nhiều năm trước, vậy tại sao lại không có khả năng nỗi sợ hãi của ông ấy bùng phát trở lại khi thấy cuốn sách nhỏ của anh, một trùng hợp khó chịu và một sự khơi gợi lại quá khứ chứ?”
“Cô nghĩ sao về sự mất tích của ông ấy?”
Cô ta lắc đầu. “Dĩ nhiên, đó có thể do ông suy sụp tinh thần. Nhưng hiện giờ tôi hiểu ý anh muốn ám chỉ gì. Những lá thư của ông có biểu hiện của” – cô ta ngần ngại – “một trí tuệ logic và dũng cảm, giống như thể hiện trong những cuốn sách khác của ông. Anh luôn có thể biết được rất nhiều điều từ những tác phẩm của một sử gia. Tôi rất hiểu các tác phẩm của ông ấy. Chúng là những nỗ lực của một đầu óc trong sáng và vững vàng.”
Cha đưa cô ta về chỗ những lá thư và chiếc cặp; cha thấy lo lắng khi phải rời xa chúng dù chỉ trong một vài phút. Cô ta đã xếp gọn gàng mọi thứ trở lại vào phong bì – đúng thứ tự như cũ, cha tin như vậy. Cô ta và cha lại cùng ngồi xuống chiếc ghế dài, giống như hai người bạn.
“Tạm cho là có một sức mạnh siêu nhiên can dự vào vụ mất tích của ông ấy,” cha thử thăm dò. “Tôi không thể tin mình đang nói ra điều đó, nhưng cứ xem xét khả năng đó đi. Kế tiếp cô khuyên tôi phải làm gì đây?”
“Ừm,” cô thong thả nói. Nhìn nghiêng, khuôn mặt cô ta sắc sảo và đầy suy tư, sát bên cha trong ánh sáng lờ mờ. “Tôi không thấy việc này sẽ giúp gì được anh trong việc điều tra bằng phương pháp hiện đại, nhưng nếu chịu suy nghĩ theo những gì người ta ghi chép lại về Dracula, hẳn anh sẽ phải cho rằng ông Rossi đã bị ma cà rồng tấn công và bắt đi, hoặc có thể đã bị giết hoặc – và nhiều khả năng hơn – bị hủy hoại bằng lời nguyền của quỷ nhập tràng. Anh biết rồi đấy, ba lần tấn công khiến máu anh bị trộn lẫn máu Dracula, hoặc một trong các đệ tử của hắn, có thể biến anh thành ma cà rồng vĩnh viễn. Nếu hắn đã cắn anh một lần, anh sẽ phải tìm ra hắn càng sớm càng tốt.”
“Nhưng sao Dracula lại xuất hiện ở đây, thay vì những nơi khác? Và tại sao hắn bắt ông Rossi mang đi? Sao không chỉ tấn công và hủy hoại ông ta, không để lại dấu vết nào gây ra sự chú ý của mọi người?”
“Tôi không biết,” cô ta lắc đầu trả lời. “Theo truyền thuyết dân gian thì đó quả là một hành vi bất thường. Ông Rossi hẳn phải – ý tôi muốn nói, nếu đây quả thực là một chuyện có tính siêu nhiên – là một mối quan tâm đặc biệt của Vlad Dracula. Thậm chí có thể, theo cách nào đó, là một mối đe dọa đối với hắn.”
“Và cô có tin việc tôi tìm thấy và mang cuốn sách nhỏ này đến chỗ ông Rossi có gì đó liên quan đến việc ông ta mất tích?”
“Lý lẽ bảo với tôi đó là một ý nghĩ kỳ quặc. Nhưng…” cô ta gấp đôi bao tay cẩn thận trong vạt váy màu đen. “Tôi băn khoăn không biết liệu có một nguồn thông tin nào khác mà chúng ta đã bỏ sót hay không.” Miệng cô ta chợt trễ xuống. Im lặng, cha thầm cám ơn cô vì hai tiếng chúng ta.
“Nguồn nào vậy?”
Cô ta thở dài rồi lại mở cặp bao tay ra. “Mẹ tôi.”
“Mẹ cô? Nhưng bà ấy có thể biết gì về…” Khi cha mới chỉ bắt đầu đưa ra một loạt thắc mắc thì ánh sáng chợt thay đổi và một làn hơi lạnh từ đâu phả tới làm cha phải quay lại. Từ chỗ ngồi của mình, cha và cô ta có thể nhìn thấy cửa ra vào nhà thờ mà không bị phát hiện từ vị trí đó – đây chính là vị trí lợi thế cha đã chọn để quan sát Helen đi vào. Lúc này, một bàn tay thò vào giữa hai cánh cửa, sau đó là một khuôn mặt nhọn, xương xương. Tay thủ thư bộ dạng kỳ quái đang nhô đầu vào giáo đường.
Cha không thể mô tả với con cảm giác của cha trong ngôi nhà thờ tĩnh lặng ấy khi gương mặt của tay thủ thư xuất hiện giữa hai cánh cửa. Trong óc cha chợt hiện lên hình ảnh của một con thú mũi nhọn, một con gì đó đang lén lút đánh hơi, một con chồn hoặc một con chuột cống. Bên cạnh cha, Helen như cóng người lại, nhìn sững ra cửa. Giờ thì hắn có thể đánh hơi được cô ta và cha bất cứ lúc nào. Nhưng vẫn còn được một hai giây, cha tính toán trong đầu, rồi yên lặng kẹp chiếc cặp và mớ giấy tờ bằng một tay, chộp lấy Helen bằng tay còn lại – không có thời gian để xin phép cô ta – rồi kéo cô ta ra cuối băng ghế dài, vào một bên gian cánh gà. Ở đó có một cánh cửa để mở dẫn vào một phòng nhỏ, cô ta và cha lủi vào đó. Cha lặng lẽ khép cửa lại. Không có cách nào để khóa từ phía trong, cha thấy quặn trong ruột khi nhận ra điều đó, mặc dù có một lỗ khóa lớn bằng sắt trên cửa.
Căn phòng nhỏ này tối hơn gian giữa giáo đường. Một bình nước thánh dùng trong lễ rửa tội đặt ở giữa phòng, một hai ghế nệm dài kê dọc theo tường. Helen và cha nhìn nhau yên lặng. Cha không đọc được nét mặt của cô ta, ngoại trừ có vẻ như nó đang chứa đựng sự cảnh giác vừa thách thức vừa sợ hãi. Không nói một lời hay một cử chỉ ra hiệu, bọn ta thận trọng di chuyển nấp sau bình nước thánh, Helen đặt một tay lên đó để tự trấn tĩnh. Sau một phút, không thể ở yên lâu hơn nữa, cha trao mớ giấy tờ cho cô ta và trở lui lại chỗ lỗ khóa. Thận trọng nhìn qua đó, cha thấy gã thủ thư đang đi ngang qua một cây cột. Giống y như một con chồn, gương mặt nhọn của gã chĩa về phía trước, liếc quanh tất cả các ghế dài. Gã quay sang hướng cha, khiến cha phải thụt lui một chút. Có vẻ gã đang quan sát cánh cửa chỗ bọn ta đang ẩn nấp, thậm chí đã bước một hoặc hai bước về phía đó, rồi lại quay đi. Đột nhiên, một chiếc áo len màu hoa oải hương xuất hiện trong tầm quan sát của cha. Một trong hai phụ nữ coi sóc bệ thờ. Cha có thể nghe thấy tiếng bà ta, nghèn nghẹt. “Tôi có thể giúp gì ông?” bà ta nói, vẻ tử tế.
“Vâng, tôi đang tìm một người.” Giọng gã thủ thư sắc, rít lên, và xem ra quá to đối với một nơi chốn tôn nghiêm. “Tôi… Bà có thấy một phụ nữ trẻ vào đây, mặc đồ đen? Tóc đen?”
“Ồ, có.” Người phụ nữ tốt bụng nhìn quanh. “Một lúc trước vừa có một người như ông tả ở đây đấy. Cô ta đi với một người đàn ông trẻ, ngồi ở ghế dài phía cuối kia kìa. Nhưng giờ thì ông thấy đấy, cô ta không còn ở đó nữa rồi.”
Gã chồn quay qua quay lại. “Cô ta không thể trốn ở một trong các phòng kia sao?” Rõ ràng, gã không hề giữ kẽ gì cả.
“Trốn à?” Người phụ nữ mặc áo màu hoa oải hương cũng quay về hướng cha. “Tôi chắc chắn không có ai trốn trong nhà thờ của chúng tôi đâu. Ông muốn tôi gọi cha xứ không? Ông cần giúp gì nữa không?”
Gã thủ thư thoái lui. “Ồ, không, không,” gã thốt lên. “Chắc tôi nhầm rồi.”
“Ông có muốn lấy một ít kinh kệ của chúng tôi không?”
“Ồ không.” Gã bước lui xuống lối đi giữa các dãy ghế. “Không, cám ơn.” Cha thấy gã nhòm quanh lần nữa, rồi sau đó biến khỏi tầm mắt của cha. Một tiếng “cách” nặng nề, rồi rầm vang lên, cửa trước đóng lại sau lưng gã. Cha gật đầu với Helen, cô ta liền buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm, không thành tiếng, nhưng bọn ta chờ ở đó thêm vài phút, liếc nhìn nhau qua bình nước thánh. Helen nhìn xuống trước, đôi hàng lông mày nhăn lại. Cha biết, chắc hẳn cô ta đang thắc mắc không hiểu tại sao cô ta lại rơi vào một tình huống như thế này và nó thực sự có ý nghĩa gì. Mái tóc cô đen tuyền, bóng – hôm nay cô ta lại không đội mũ.
“Hắn tìm cô,” cha nói thì thầm.
“Có lẽ hắn đang tìm anh.” Cô ta chỉ vào chiếc phong bì trong tay cha.
“Tôi có một ý nghĩ khá kỳ lạ,” cha nói, giọng từ tốn. “Có thể hắn biết ông Rossi ở đâu.”
Cô ta lại cau mày. “Đằng nào thì cũng chẳng có phần nào trong toàn bộ chuyện này logic cả, nên rất có thể anh đúng,” cô ta thì thầm.
“Tôi không thể để cô trở lại thư viện. Hoặc về phòng cô. Hắn sẽ tìm kiếm cô ở cả hai nơi đó.”
“Để tôi?” cô ta lặp lại, vẻ bực bội.
“Cô Rossi, xin cô. Cô muốn là người kế tiếp biến mất hay sao?”
Cô ta im lặng. “Vậy anh định lên kế hoạch bảo vệ tôi như thế nào?” Cô ta vẫn giữ giọng châm chọc, và cha lại nghĩ đến thời thơ ấu kỳ lạ của cô ta, chuyến bay đầu tiên đến Hungary khi còn nằm trong bụng mẹ, những hiểu biết về chính trị đã cho phép cô đến phía bên kia thế giới để thực hiện cuộc báo thù học thuật ấy. Lẽ dĩ nhiên, nếu câu chuyện của cô ta hoàn toàn có thực.
“Tôi có một ý kiến,” cha nói, chậm rãi. “Tôi biết điều này nghe có vẻ… vớ vẩn, nhưng tôi cảm thấy tốt hơn hết cô nên nghe theo tôi trong chuyện này. Chúng ta có thể mang theo người một vài… thứ bùa phép của nhà thờ này…” Cô ta lại nhướng mày lên. “Chúng ta sẽ tìm một cái gì đó… nến hoặc thánh giá hoặc cái gì đó… rồi mua một ít tỏi trên đường về nhà… ý tôi muốn nói là căn hộ của tôi…” Lông mày cô ta nhướng cao hơn nữa. “Ý tôi là nếu cô bằng lòng đi cùng tôi… và cô có thể… ngày mai có thể tôi có một chuyến đi, nhưng cô có thể…”
“Ngủ trên ghế sofa chứ gì?” Cô ta lại mang bao tay vào và khoanh trước ngực. Cha cảm thấy mặt mình đỏ lên.
“Tôi không thể để cô trở về phòng cô – hoặc trở về thư viện, tất nhiên – khi biết cô có thể bị truy đuổi. Và tôi nghĩ chúng ta cần phải thảo luận thêm. Tôi muốn biết cô nghĩ mẹ cô…”
“Chúng ta có thể thảo luận chuyện đó ngay ở đây, ngay bây giờ,” cô ta nói… lạnh lùng, cha nghĩ vậy. “Về phần tay thủ thư, tôi nghi ngờ việc hắn có thể theo dõi tôi về đến phòng mình, trừ phi…” Có phải cô ta có lúm đồng tiền ở một bên chiếc cằm khắc khổ không nhỉ, hay đó chỉ là vẻ mỉa mai? “Trừ phi hắn biến thành một con dơi. Anh biết đấy, bà quản lý của chúng tôi đâu có cho phép ma cà rồng vào phòng chúng tôi. Cả đàn ông cũng không. Vả lại, tôi hy vọng hắn sẽ theo tôi trở về thư viện.”
“Hy vọng?” cha giật mình.
“Tôi biết hắn sẽ không chịu nói chuyện với chúng ta ở đây, trong nhà thờ. Chắc hẳn hắn đang chờ chúng ta ở bên ngoài. Tôi có chuyện lớn cần thảo luận với hắn đây” – lại là thứ tiếng Anh đặc biệt kia – “bởi vì hắn đang cố can thiệp vào quyền được vào làm việc trong thư viện của tôi, vả lại anh cũng tin rằng hắn có thông tin về cha… à không, giáo sư Rossi. Tại sao không để hắn theo dõi tôi? Chúng ta có thể nói chuyện về mẹ tôi trên đường đi.” Chắc hẳn vẻ hoài nghi hiện rõ mồn một trên mặt cha, bởi cô ta chợt bật cười, hàm răng trắng và đều đặn. “Hắn sẽ không nhảy bổ vào anh giữa ban ngày ban mặt đâu, anh Paul.”
Chú thích:
1. Nhân vật trong Kinh Thánh, được Chúa Jesus cứu sống sau khi chết và đã chôn được bốn ngày (BT).