“Cô tuyệt đối không nên hành động như vậy,” cha thì thầm. “Tìm kiếm thông tin về thầy Rossi là chuyện của tôi.”
“Lấy thông tin về ông Rossi chính xác là chuyện của tôi,” cô ta cũng thì thầm đáp lại. “Làm ơn đừng cho rằng tôi đang giúp anh. Anh Lái Buôn Hà Lan ạ.”
Cha liếc xéo cô ta. Cha nhận ra mình đã quen với khiếu hài hước kiểu châm chọc cay nghiệt của cô ta, và một nét gì đó ở đường viền gò má cạnh bên chiếc mũi thẳng, trông có vẻ rất buồn cười. “Thôi được. Tôi sẽ ở ngay sau hắn, nếu cô gặp rắc rối tôi sẽ có mặt ngay tức khắc để giúp cô.”
Ở cửa vào thư viện, cô ta và cha làm ra vẻ thân mật chia tay nhau. “Chúc may mắn với công việc nghiên cứu, anh Hà Lan,” Helen nói, bắt tay cha bằng bàn tay vẫn còn mang găng.
“Cô cũng vậy, cô…”
“Suỵt,” cô nói rồi bỏ đi. Cha rút vào khu kệ đựng thẻ danh mục, kéo đại một ngăn hộc làm ra vẻ đang bận rộn: “Ben-Hur đến Benedictine”. Tuy cúi đầu nhìn vào đó nhưng cha vẫn thấy được quầy cho mượn sách; Helen có giấy phép vào kho sách, dáng cô ta cao mảnh khảnh trong chiếc áo khoác đen, lưng quay hẳn về gian sảnh giữa của thư viện. Sau đó cha thấy gã thủ thư rón rén men theo tường đối diện của sảnh, tiến đến gần đầu kia khu kệ thẻ danh mục. Gã đã tới chỗ chữ “H” vào lúc Helen di chuyển đến cửa kho sách. Cha biết cánh cửa đó rất rõ, hầu như ngày nào cha cũng đi ngang qua đó nhưng chưa bao giờ thấy nó mở toang hoác ra như lúc này. Cánh cửa được chặn suốt ngày, nhưng luôn có một người bảo vệ trực để kiểm soát giấy phép ra vào. Trong chốc lát, hình bóng mờ đen của Helen biến mất phía trên cầu thang sắt. Gã thủ thư chần chừ trong chốc lát tại mục chữ “G”, rồi mò mẫm tìm cái gì đó trong túi áo khoác – chắc chắn hắn có thẻ nhận dạng đặc biệt của thư viện, cha nhìn thấy – trình thẻ, rồi biến mất.
Cha vội vã đến quầy. “Tôi cần sử dụng kho sách, xin làm ơn.” Cha nói với người phụ nữ đang ngồi trực. Trước giờ cha chưa hề gặp bà ta – bà ta quả rất lề mề – cha có cảm giác hình như hai bàn tay nhỏ thó tròn trịa của bà sẽ mãi mãi phải mò mẫm trong đống giấy phép màu vàng trước khi đưa cho cha một tấm. Cuối cùng cha cũng qua cửa và cẩn thận bước lên cầu thang, mắt hướng nhìn lên. Ở mỗi tầng, người ta có thể nhìn lên tầng trên qua các bậc thang sắt, nhưng tầng trên nữa thì không. Chẳng có dấu hiệu nào của gã thủ thư ở phía trên, không một tiếng động.
Cha rón rén bước lên tầng hai, ngang qua khu sách kinh tế và xã hội học. Tầng ba cũng vắng người, ngoại trừ hai sinh viên đang làm việc ở khu vực dành riêng. Đến tầng bốn, cha bắt đầu cảm thấy lo lắng thực sự. Quá yên lặng. Lẽ ra, cha không bao giờ nên để Helen tự làm mồi nhử trong nhiệm vụ này. Cha đột nhiên nhớ lại câu chuyện anh bạn Hedges của thầy Rossi và cảm thấy cần phải nhanh chân hơn. Tầng thứ năm – khảo cổ và nhân học – có rất đông sinh viên lớp chuẩn bị tốt nghiệp đang tham gia một buổi kiểu như học nhóm và đang rì rầm trao đổi với nhau về những ghi chép của mình. Sự hiện diện của họ làm cha thấy nhẹ nhõm phần nào; vậy chắc chẳng có chuyện gì ghê gớm xảy ra được ở hai tầng phía trên đó. Ở tầng thứ sáu cha có thể nghe có tiếng bước chân phía trên đầu, và đến tầng bảy – lịch sử – cha dừng lại, không biết phải vào kho sách như thế nào mà không bị lộ.
Ít nhất cha cũng biết rõ tầng này; nó là vương quốc của cha, và cha có thể cho con biết sự sắp đặt của từng ngăn nghiên cứu, từng chiếc ghế, mọi dãy sách quá khổ. Thoạt tiên, tầng lịch sử có vẻ như cũng tĩnh lặng như các tầng khác, nhưng một lát sau cha nghe có tiếng nói chuyện thì thầm ở một góc. Cha rón rén đi về phía đó, ngang qua khu vực về Babylon và Assyria, cố gắng bước thật khẽ. Rồi cha nghe được giọng nói của Helen. Chắc chắn đó là giọng của Helen, và sau đó là giọng nói nhát gừng khó ưa của gã thủ thư. Tim cha thót lại. Họ đang ở khu vực Trung cổ – giờ thì cha đã quá rành khu đó – cha đến gần để có thể nghe rõ hơn; mặc dù cha không thể mạo hiểm đến cuối giá sách cạnh đó để nhìn qua bên đó. Hình như họ ở phía bên kia các ngăn kệ bên tay phải của cha. “Việc đó đúng không?” Helen hỏi, giọng hằn học.
Giọng nói nhát gừng, rin rít lại cất lên. “Cô không được phép lục lọi những cuốn sách đó, thưa cô.”
“Những cuốn sách đó? Tài sản của trường Đại học? Ông là ai mà có quyền tịch thu sách của thư viện trường đại học?”
Giọng nói của gã thủ thư vừa giận dữ vừa ngon ngọt dỗ dành. “Cô không cần phải lục lọi những cuốn sách như vậy. Chúng đâu phải là sách hay cho một quý cô. Hôm nay chỉ cần cô trả chúng lại là mọi việc sẽ ổn.”
“Tại sao ông cần chúng dữ vậy?” Giọng Helen dứt khoát và rõ ràng. “Liệu chúng có liên quan gì đến giáo sư Rossi, có lẽ vậy chăng?”
Nép mình sau kệ sách về chế độ phong kiến Anh, cha không biết phải ro rúm lại hay lên tiếng hoan hô. Dù cho Helen nghĩ như thế nào về tất cả sự vụ này, ít nhất cô ta cũng quan tâm. Dường như cô không coi cha là người điên. Và cô ta muốn giúp cha, ngay cả chỉ để thu thập thông tin về thầy Rossi vì những mục đích của riêng cô ta.
“Giáo sư nào – ai? Tôi không hiểu cô muốn nói gì,” gã thủ thư thốt lên, giọng cáu kỉnh.
Helen đanh giọng, “Ông biết ông ấy đang ở đâu chứ?”
“Cô gái ơi, tôi không biết những điều cô vừa nói. Nhưng tôi cần cô hoàn trả những cuốn sách đó, thư viện đang cần chúng cho các kế hoạch khác, nếu không chắc chắn sự nghiệp hàn lâm của cô sẽ phải gánh chịu hậu quả đấy.”
“Sự nghiệp của tôi?” Helen chế giễu. “Bây giờ tôi chưa thể trả lại những cuốn sách đó. Tôi có công việc quan trọng liên quan đến chúng.”
“Vậy thì tôi sẽ buộc cô trả chúng lại. Giờ chúng ở đâu?” Cha nghe có tiếng bước chân, giống như Helen bỏ đi. Cha định phóng đến cuối kệ sách, chộp cuốn sách khổ đôi về các tu sĩ dòng Cistercian để ném vào đầu con chồn nhỏ hôi hám bẩn thỉu kia thì Helen đột ngột tung ra một chiêu khác.
“Tôi sẽ cho ông biết vài điều,” cô ta nói. “Nếu ông có thể cho tôi biết vài điều về giáo sư Rossi, thì có thể tôi sẽ chia sẻ với ông một ít…” cô dừng lại. “Một tấm bản đồ nhỏ mà tôi mới phát hiện gần đây.”
Cha chưng hửng rớt xuống cả bảy tầng lầu này. Tấm bản đồ? Helen nghĩ gì? Tại sao cô ta lại tiết lộ một thông tin chết người như vậy? Tấm bản đồ có thể là thứ nguy hiểm nhất và quan trọng nhất mà cha và cô ta sở hữu, nếu các phân tích của thầy Rossi về ý nghĩa của nó là đúng. Món sở hữu nguy hiểm nhất của riêng mình thôi, cha thầm đính chính. Liệu Helen có chơi trò lá mặt lá trái với cha? Cha chợt thấy được sự việc: cô ta muốn sử dụng tấm bản đồ để trước hết tìm tới chỗ thầy Rossi, hoàn tất công trình nghiên cứu của ông ấy, lợi dụng cha để biết tất cả những gì ông ta đã biết, sau đó gạt cha ra rìa, công bố và vạch trần ông ấy – cha không có đủ thời gian để luận suy tiếp vì ngay sau đó gã thủ thư đã gầm lên. “Tấm bản đồ! Ngươi có tấm bản đồ của Rossi! Ta sẽ giết ngươi vì tấm bản đồ đó!” Tiếng Helen thở hổn hển, sau đó là một tiếng thét và tiếng một cú đấm. “Bỏ xuống!” gã thủ thư hét lên.
Chân cha hầu như không chạm đất cho đến khi vật được hắn xuống. Cái đầu nhỏ bé của gã đập rầm một tiếng xuống nền nhà làm cha cũng cảm thấy lùng bùng trong đầu. Helen nép người bên cạnh cha. Mặt cô ta trắng bệch nhưng vẫn có vẻ bình tĩnh. Cô ta đang cầm chiếc thánh giá hai mươi lăm xu mua ở nhà thờ, giữ chắc hướng về phía hắn trong lúc hắn giãy giụa chống cự bên dưới cha. Tên thủ thư này rất yếu, chỉ ít phút sau cha đã ít nhiều chế ngự được gã – may cho cha, vì trong ba năm gần đây cha chỉ đánh vật với mớ giấy tờ tài liệu của xứ Hà Lan này chứ không tập cử tạ. Gã vùng vẫy trong tay cha, cha tì chặt hai đầu gối xuống khóa chân hắn. “Rossi!” gã hét lên. “Thật bất công! Lẽ ra ta mới là kẻ được đi – đó là lượt của ta! Đưa tấm bản đồ cho ta! Ta chờ đợi quá lâu rồi – ta đã mất hai mươi năm để tìm nó!” Hắn bắt đầu nức nở, tiếng khóc thảm thiết, khó chịu. Trong lúc đầu hắn giật tới giật lui, cha nhìn thấy hai vết thương giống hệt nhau gần rìa cổ áo, hai lỗ gai đâm nham nhở gớm ghiếc. Cha cố giữ cho tay mình không chạm vào đó.
“Thầy Rossi đâu?” cha gầm lên. “Nói ngay cho bọn tao biết ông ấy ở đâu – ngươi làm hại ông ấy phải không?” Helen gí chiếc thánh giá sát gần hơn, gã vội quay mặt đi, giãy giụa dưới chân cha. Cha kinh ngạc, ngay cả vào lúc đó, khi nhìn thấy tác dụng của biểu tượng đó đối với tên tay sai này. Đây là chuyện trong phim Hollywood, chuyện mê tín dị đoan hay chuyện lịch sử? Cha băn khoăn tự hỏi làm sao hắn có thể bước chân vào nhà thờ – nhưng cha chợt nhớ lúc đó hắn đứng rất xa bệ thờ và nhà nguyện, và đã lùi xa khỏi bà coi sóc bệ thờ.
“Ta chẳng đụng chạm gì tới lão! Ta không biết gì về chuyện đó!”
“Ồ, không, ngươi có biết,” Helen cúi xuống sát hơn. Nét mặt cô ta dữ tợn, nhưng trắng bệch, và cha để ý lúc đó cô ta giữ chặt bàn tay còn lại lên cổ.
“Helen!”
Cha hẳn đã thét lên to lắm, nhưng cô khoát tay ra hiệu bảo cha ngừng, rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt gã thủ thư. “Ông Rossi đâu? Ngươi chờ đợi cái gì trong nhiều năm?” Gã co rúm lại. “Ta sẽ đặt cái này lên mặt ngươi ngay bây giờ đây.” Helen nói, hạ cây thánh giá xuống.
“Đừng!” hắn thét lên. “Tôi sẽ nói. Rossi không muốn đi. Tôi muốn đi. Như vậy là không công bằng. Người mang Rossi đi thay vì tôi! Người đã dùng vũ lực bắt lão đi – tôi rất muốn theo hầu hạ Người, giúp Người, ghi vào mục lục…” Gã chợt ngưng bặt.
“Cái gì?” Cha dộng nhẹ đầu hắn xuống sàn để gia tăng sức ép. “Ai bắt ông Rossi đi? Ngươi giữ ông ấy ở đâu?”
Helen gí sát cây thánh giá lên mũi hắn, hắn lại bắt đầu khóc nức nở. “Ông Chủ,” gã rền rĩ. Helen, bên cạnh cha, hít vào một hơi dài rồi ngồi thụp xuống, tựa như vô tình bị chựng lại vì những lời nói của gã thủ thư.
“Chủ ngươi là ai?” Cha thúc đầu gối vào chân hắn. “Hắn mang ông Rossi đi đâu?”
Đôi mắt hắn đỏ ngầu. Quả là một cảnh tượng gây sốc – sự biến dạng ấy, những đường nét bình thường của một con người bỗng tượng hình cho ý nghĩa khủng khiếp ấy. “Tôi được phép đến đâu nữa chứ! Đi đến cái hầm mộ kia thôi.”
Có thể tay nắm của cha đã lỏng, hoặc có thể lời thú nhận đó đã làm cho gã đột nhiên mạnh lên – có lẽ bởi gã khiếp đảm cho số phận của mình, sau này cha nhận ra. Dù sao đi nữa, gã đã bất ngờ rút ra được một tay, lật ngược người lại như một con bọ cạp, bẻ ngoặt ra sau cổ tay cha đang đè lên vai hắn. Không chịu đựng nổi cơn đau sắc lẹm, cha giận dữ rụt tay lại. Gã vùng bỏ chạy trước khi cha kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra, sau đó cha đuổi theo gã xuống cầu thang, rầm rập chạy qua đám sinh viên đang thảo luận nhóm và lãnh địa tri thức tĩnh lặng ở bên dưới. Nhưng cha bị vướng víu vì chiếc cặp vẫn còn nắm chặt trong tay. Ngay từ khi bắt đầu cuộc rượt đuổi, cha đã nhận ra ngay là mình không muốn bỏ nó xuống. Hoặc thảy nó cho Helen. Cô ta đã cho gã biết về tấm bản đồ. Cô ta là kẻ phản bội. Và gã đã cắn cô ta, dù chỉ mới một lát. Bây giờ cô ta đã bị nhiễm chưa nhỉ?
Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng thay vì khoan thai bước đi, cha đã chạy băng qua gian sảnh giữa tĩnh lặng của thư viện, chỉ thoáng thấy những gương mặt kinh ngạc quay lại nhìn khi cha chạy băng qua. Không thấy dấu vết gã thủ thư. Cha thất vọng nhận ra có thể gã đã chạy thoát vào một khu vực phía sau nào đó, một khu chứa rác hoặc kho chứa chổi nào đó dành riêng cho nhân viên thư viện. Cha bật tung cánh cổng trước nặng nề, hai cánh cửa lớn kiểu Gothic dẫn vào đại sảnh và chưa bao giờ mở ra trọn vẹn. Rồi cha khựng lại trên các bậc tam cấp. Nắng buổi chiều khiến cha lóa mắt, tựa như cha vừa sống dưới âm ty, trong một hang dơi hoặc hang một loài gặm nhấm nào dưới đất. Trên đường phía trước thư viện, vài chiếc xe đã dừng lại. Thực ra, giao thông đang ngừng lại, một cô gái trong đồng phục hầu bàn đang đứng khóc trên lề đường, trỏ tay vào một cái gì đó. Ai đó hét lên, hai người đàn ông đang quỳ phía trước một trong những chiếc xe đang dừng lại. Chân gã thủ thư chồn hôi thò ra từ phía dưới gầm xe, vẹo đi theo một góc kỳ dị. Một cánh tay của gã vắt qua đầu. Gã nằm sấp trên mặt đường trong một vũng máu nhỏ, ngủ giấc ngàn thu.