“Chuyến đi đó, với những tuyến đường ray cắt qua vách núi, những khoảng bao la rừng cây và vách đá, sông suối và thị trấn từ thời Trung cổ, sẽ phải chờ đến sau này, khi cha đảm nhận công việc ngoại giao, và từ đó mới đi được hai lần. Đối với cha, có gì đó vô cùng kỳ bí trong sự chuyển biến mà ta chứng kiến khi đi dọc theo lộ trình đó, từ thế giới Hồi giáo sang Thiên Chúa giáo, từ đế chế Ottoman qua đế quốc Áo-Hung, từ đạo Hồi chuyển sang Công giáo và đạo Tin Lành. Đó là một sự thay đổi dần dần của những thành phố, của phong cách kiến trúc, của những tháp thánh đường Hồi giáo ban đầu còn vô số, rồi xen lẫn và cuối cùng là nhường chỗ hẳn cho những mái vòm nhà thờ Công giáo, của chính phong cảnh rừng và dòng sông, để rồi dần dần ta bắt đầu tin mình có thể đọc được tiến trình lịch sử ngay trong chính thiên nhiên. Liệu dốc một sườn đồi trên đất Thổ Nhĩ Kỳ có thực sự khác hẳn với triền dốc của một cánh đồng cỏ ở Hungary? Dĩ nhiên là không, thế nhưng mắt ta chắc chắn sẽ thấy chúng khác nhau khi mà thông tin lịch sử về chúng lại xuất phát từ chính đầu óc con người. Sau này, khi đi lại trên lộ trình đó, cha còn nhìn nhận nó mỗi lúc một khác, khi thì thấy đó là một vùng đất yên bình, lúc thì tắm trong máu đổ – đây cũng là một đặc điểm khác của cảnh quan lịch sử, liên tục bị giằng xé giữa cái thiện và cái ác, giữa chiến tranh và hòa bình. Dù đang hình dung một cuộc đột kích bất ngờ của người Thổ qua sông Danube hay một cuộc càn quét thời xa xưa của người Hung Nô từ hướng Đông về phía con sông ấy, cha luôn bị ám ảnh bởi những hình ảnh đối nghịch: một cái thủ cấp được mang về doanh trại trong tiếng hò reo chiến thắng pha lẫn thù hận, và một bà lão – có thể là cụ tổ của những gương mặt nhăn nheo mà cha nhìn thấy trên chuyến bay này – khoác áo ấm cho đứa cháu trai, bẹo yêu lên một bên má vẫn còn vương nét trẻ thơ của chàng trai Thổ, trong khi vẫn khéo léo giữ cho món thịt hầm rau không cháy.
“Tuy nhiên, với cha, những hình ảnh ấy còn nằm trong tương lai, còn lúc này, suốt chuyến bay cha chỉ biết tiếc nuối về bức tranh toàn cảnh bên dưới dù chưa biết nó là gì và sẽ khơi gợi trong cha ý tưởng nào. Helen, một khách lữ hành dày dạn kinh nghiệm hơn do đó bớt phấn khích hơn, tận dụng cơ hội này để cuộn người trên ghế, đánh một giấc. Hai đêm liền, chúng ta đã thức khuya, ngồi tại bàn trong nhà hàng ở Istanbul ấy để cùng viết bài tham luận cho cha đọc tại Budapest. Cha phải ghi nhớ nhiều kiến thức về những trận đánh của Vlad với người Thổ hơn, mặc dù chúng chẳng nói lên được gì nhiều. Cha hy vọng sau khi mình đọc xong tham luận nửa vời này sẽ không có ai nêu lên bất kỳ câu hỏi nào. Dù vậy, những gì Helen lưu giữ trong bộ nhớ của cô quả là đáng nể, cha lại cảm thấy kinh ngạc khi thấy cô đã tự tìm hiểu được ngần ấy kiến thức về Dracula chỉ vì một niềm hy vọng mơ hồ là sẽ tìm thấy một người cha mà cô còn hầu như chưa thừa nhận. Khi cô say ngủ, tựa đầu vào vai cha, cha để yên, cố không hít vào mùi hương tỏa ra từ những lọn tóc mềm mại ấy – dầu gội đầu Hungary chăng? Cô ấy đã mệt rồi; cha cẩn thận ngồi lặng yên trong khi cô ngủ.
“Ấn tượng đầu tiên của cha về Budapest, cảm nhận qua cửa xe taxi, ngay từ phi trường, là vẻ đẹp tao nhã, mênh mang của thành phố. Helen giải thích là chúng ta sẽ ở một khách sạn trên bờ Đông sông Danube, gần trường đại học, bên phần Pest của thành phố, nhưng dường như cô đã yêu cầu người tài xế chạy dọc theo sông Danube trước khi thả chúng ta xuống khách sạn. Chỉ trong giây lát, chúng ta đã lướt qua những đường phố cổ kính của thế kỷ mười tám và mười chín, thỉnh thoảng lại trầm trồ trước sự xuất hiện đột ngột một biểu hiện kỳ lạ nào đó của phong cách tân nghệ thuật hoặc một cây cổ thụ khổng lồ. Ngay sau đó, chúng ta đã thấy dòng Danube xuất hiện. Thật vĩ đại – cha không ngờ nó lại hùng vĩ nhường này – ba cây cầu khổng lồ giăng ngang dòng sông. Trên bờ sông bên phía chúng ta, những ngọn tháp phong cách tân Gothic và mái vòm Tòa nhà Nghị viện vút lên cao, còn phía bờ đối diện, cung điện hoàng gia và những tháp giáo đường có từ thời Trung cổ nhô lên khỏi nền cây xanh ngút ngàn trên những sườn đồi. Giữa tất cả những cảnh tượng đó là khoảng mênh mông của dòng sông, mặt nước màu xanh xám, lăn tăn gợn sóng theo từng cơn gió và lấp lánh ánh mặt trời. Bầu trời bao la một màu xanh, uốn cong trên những mái vòm, dinh thự và giáo đường, khẽ hắt xuống mặt nước những màu sắc liên tục thay đổi.
“Cha đã chuẩn bị tinh thần sẽ thấy một Budapest hấp dẫn, và cha sẽ ngưỡng mộ nó; nhưng cha chưa từng nghĩ mình sẽ sửng sốt nhường này. Thành phố mang trong mình dáng dấp của những kẻ từng xâm lược nó và đồng minh của chúng, bắt đầu với người La Mã và cuối cùng là người Áo – hoặc Liên Xô, cha vừa nghĩ vừa nhớ lại những bình luận cay đắng của Helen – nhưng vẫn khác hẳn. Budapest không hoàn toàn thuộc về phương Tây, chẳng phải phương Đông như Istanbul, và với tất cả các kiến trúc Gothic ấy thì cũng không phải Bắc Âu. Cha đăm đắm nhìn ra ngoài khung cửa taxi tù túng và thấy cả một toàn cảnh tráng lệ độc đáo. Helen cũng nhìn đăm đăm, một lát sau cô quay sang cha. Chắc có lẽ một vài nét khích động hãy còn hiển hiện trên mặt cha, bởi cô đã bật cười. ‘Tôi thấy anh mê tít thành phố nhỏ bé này của chúng tôi rồi,’ cô nói, cha nghe thấy dưới giọng châm biếm ấy là một sự hãnh diện. Rồi cô nói tiếp, giọng trầm xuống, ‘Anh biết không? – Dracula từng là một người của thành phố này đấy. Năm 1462, hắn đã bị vua Matthias Corvinus giam vào một nhà ngục ở cách Buda hai mươi dặm vì đã đe dọa những quyền lợi của Hungary trong vùng Transylvania. Dường như vua Corvinus đã đối xử với hắn như một vị khách của gia đình hơn là một tù nhân và thậm chí đã ban cho hắn một người vợ thuộc hoàng tộc Hungary, dù không ai biết chính xác người vợ này là ai – đó là người vợ thứ hai của Dracula. Hắn đã tỏ lòng biết ơn bằng cách cải đạo theo Công giáo, và được phép sống ở Pest một thời gian. Và ngay khi được tha khỏi Hungary thì…’
“ ‘Tôi nghĩ tôi có thể hình dung được chuyện đó,’ cha tiếp lời. ‘Hắn trở về Wallachia, tiếp quản lại ngai vàng ngay khi có thể và tuyên bố phủ nhận sự cải đạo của mình.’
“ ‘Về cơ bản, điều đó là chính xác,’ cô thừa nhận. ‘Anh hiểu ý ông bạn chúng ta đấy. Hắn không muốn gì hơn ngoài việc chiếm giữ ngai vàng xứ Wallachia.’
“Chẳng bao lâu, chiếc taxi đã vòng trở lại khu vực cổ của Pest, cách xa dòng sông, nhưng ở đây còn nhiều thứ tuyệt vời hơn để rồi cha phải ngẩn ngơ ngắm nhìn, và cha đã làm thế không chút ngượng ngùng: quán cà phê với ban công mô phỏng những công trình tráng lệ của Ai Cập hay Assyria, phố đi bộ tấp nập người qua lại mua sắm và đầy những chiếc đèn đường kiểu cũ, những tác phẩm khảm chạm và điêu khắc: các vị thánh và thiên thần bằng đồng hoặc cẩm thạch, các vị vua hoặc hoàng đế, và những nghệ sĩ vĩ cầm khoác áo choàng trắng biểu diễn nơi một góc phố. ‘Đến nơi rồi,’ Helen chợt thốt lên. ‘Đây là khu vực đại học, còn kia là thư viện trường.’ Cha nghển cổ lên nhìn một tòa nhà cổ kính đường bệ, xây bằng một loại đá màu vàng. ‘Chúng ta sẽ vào đó khi có dịp – thực ra tôi muốn xem lại một thứ ở đó. Và đây là khách sạn của chúng ta, ngay cuối utca Magyar – đường Magyar. Dù sao chăng nữa, tôi phải mua một tấm bản đồ để anh khỏi bị lạc mới được.’
“Người tài xế bỏ hành lý chúng ta trước một mặt tiền ốp đá màu xám, sang trọng và thanh lịch, cha đưa tay ra giúp Helen ra khỏi xe. ‘Biết ngay mà,’ cô nói, hừ mũi. ‘Bao giờ người ta cũng dùng cái khách sạn này làm nơi tổ chức hội nghị.’
“ ‘Tôi thấy nó cũng được đấy chứ,’ cha đánh bạo nhận xét.
“ ‘Ừ, thì nó đâu có tồi. Rồi anh sẽ đặc biệt thích thú khi được chọn lựa giữa cái lạnh hoặc nước lạnh, và thức ăn đóng hộp cho mà xem.’ Helen chọn ra một mớ đồng xu bằng bạc và đồng để trả cho tay tài xế.
“ ‘Tôi tưởng là món ăn Hungary ngon lắm kia mà,’ cha nói, vẻ tin tưởng. ‘Chắc chắn là tôi đã nghe nói thế ở đâu đó. Như món goulash và paprika chẳng hạn.’
“Helen đảo mắt. ‘Khi anh nói đến Hungary thì mọi người đề cập ngay đến món goulash. Cũng như họ sẽ đề cập ngay đến Dracula nếu anh nhắc đến Transylvania.’ Cô bật cười. ‘Nhưng anh có thể quên đồ ăn của khách sạn đi. Cứ chờ cho đến khi chúng ta ăn uống tại nhà bác tôi hoặc mẹ tôi, lúc đó chúng ta sẽ bàn luận về cách nấu nướng của người Hungary.’
“ ‘Tôi tưởng mẹ cô và bác cô là người Rumani chứ,’ cha vặn lại và phải hối tiếc ngay tức khắc; mặt cô đanh lại lạnh như tiền.
“ ‘Anh muốn nghĩ thế nào thì tùy, anh Người Mỹ à,’ Helen độp lại, chộp lấy chiếc va li của cô trước khi cha kịp đưa tay xách hộ.
“Tiền sảnh khách sạn yên tĩnh và lạnh lẽo, với những chi tiết bằng đá cẩm thạch và thếp vàng của một thời hưng thịnh xa xưa. Cha thấy khách sạn này thật dễ chịu, chẳng có gì để Helen cảm thấy phải xấu hổ vì nó. Một lát sau, cha nhận ra đây là lần đầu tiên mình đến một đất nước xã hội chủ nghĩa – trên bức tường phía sau quầy tiếp tân là chân dung những quan chức chính quyền, loại đồng phục màu xanh đậm của tất cả nhân viên khách sạn có gì đó thể hiện ý thức vô sản tự giác. Helen ghi tên lấy phòng và trao cho cha chìa khóa phòng cha. ‘Bác tôi đã thu xếp rất tuyệt,’ cô hài lòng nói. ‘Bác ấy đã gọi điện đến nhắn là sẽ gặp chúng ta vào bảy giờ tối nay để đưa chúng ta ăn tối ở ngoài. Chúng ta sẽ đi đăng ký ở phòng hội nghị trước rồi dự lễ đón tiếp ở đó vào lúc năm giờ.’
“Cha thấy thất vọng với cái tin bác cô không mời chúng ta về nhà để thưởng thức món ăn Hungary do chính bà nấu và cũng để nhìn thoáng xem cuộc sống của giới quan chức chóp bu như thế nào, nhưng cha nhớ lại rằng mình, xét cho cùng, là một người Mỹ và chẳng nên mong đợi mọi cánh cửa ở đây sẽ mở ra trước mặt mình. Cha có thể là mối hiểm nguy, một nguy cơ hoặc ít nhất là một tác nhân gây rắc rối. Thực ra, cha nghĩ, mình nên giấu mặt và càng ít gây rắc rối cho các vị chủ nhà càng tốt. Rốt cuộc, cha đã may mắn có mặt ở đây và điều cha mong muốn nhất là không để xảy ra vấn đề gì với Helen và gia đình cô.
“Căn phòng ở trên lầu của cha bài trí đơn sơ nhưng sạch sẽ, điểm xuyết một cách bất hợp lý nét vương giả xa xưa bằng tượng mạ vàng hình các tiểu thiên thần bụ bẫm trên bốn góc trần và một chậu rửa mặt bằng đá cẩm thạch hình một vỏ sò lớn. Khi rửa tay ở đó rồi nhìn vào tấm gương phía trên để chải tóc, cha chợt nhăn mặt khi nhìn từ vết keo dán kính ngớ ngẩn sang chiếc giường nhỏ hẹp đã sửa soạn thẳng thớm, chắc hẳn vốn là một chiếc giường nhà binh. Lần này, phòng của cha không ở cùng tầng với Helen – một sự lo xa của bà bác Helen chăng? – nhưng ít ra cha sẽ có các vị tiểu thiên thần lỗi thời, đầu đội vòng hoa kiểu Áo Hung làm bầu bạn.
“Helen đang chờ trong tiền sảnh, cô im lặng dẫn cha qua những cánh cửa đồ sộ của khách sạn ra một con đường lớn. Cô lại mặc chiếc sơ mi xanh nhạt, tóc kẹp ra phía sau thành một dải mềm mại – trong thời gian cùng đi chung với nhau, dần dần cha đã trở nên khá lôi thôi trong khi cô vẫn xoay xở để giữ được bề ngoài sạch sẽ và tươm tất, cha nghĩ đó là một biệt tài của người Đông Âu. Cô mải mê suy nghĩ khi chúng ta bách bộ hướng về phía trường đại học. Cha không dám hỏi cô đang nghĩ gì, nhưng sau một lát cô tự lên tiếng. ‘Thực là kỳ lạ khi trở lại nơi đây một cách quá đột ngột như thế này,’ cô nói, liếc nhìn cha.
“ ‘Và với một người Mỹ xa lạ nữa chứ?’
“ ‘Và với một người Mỹ xa lạ,’ cô lẩm bẩm, nghe có vẻ chẳng vui vẻ gì.
“Trường đại học gồm những tòa nhà trông rất uy nghi, một số trông rập khuôn cái thư viện đường bệ mà chúng ta vừa nhìn thấy trước đó, và cha bắt đầu cảm thấy thoáng chút lo lắng khi Helen ra dấu chỉ về nơi chúng ta sẽ đến, một gian sảnh rộng, phong cách cổ điển, có những bức tượng bao quanh ở tầng hai. Cha dừng lại, nghển lên nhìn và đọc được tên của một số tượng, viết theo tự dạng Hungary: Plato, Descartes, Dante, tất cả tượng đều mang vòng nguyệt quế trên đầu và khoác áo choàng kiểu cổ. Một số nhân vật khác khá xa lạ với cha: Szent István, Mátyás Corvinus, János Hunyadi. Họ giương cao quyền trượng hoặc đội vương miện oai phong.
“ ‘Họ là ai thế?’ cha hỏi Helen.
“ ‘Mai tôi sẽ trả lời anh,’ cô đáp. ‘Đi nào, hơn năm giờ rồi.’
“Chúng ta vào một sảnh, một số thanh niên – cha đoán là sinh viên – đang sôi nổi nói chuyện ở đó, rồi tiến đến một căn phòng lớn ở tầng hai. Cha cảm thấy hơi cồn ruột; chỗ này thì đầy nghẹt các giáo sư bận com lê vải tuýt hoặc đen hoặc xám, thắt nơ bướm – chắc hẳn họ phải là giáo sư – và đang ăn món pho mát trắng kèm ớt đỏ trên những đĩa nhỏ và uống thứ gì đó có mùi gắt như một loại dược phẩm. Tất cả bọn họ hẳn đều là những sử gia, cha vừa nghĩ vừa than thầm và cảm thấy lòng nặng trịch, dù cha được cho là một người trong số họ. Ngay lập tức, Helen bị một đám các bạn đồng sự vây quanh, cha thoáng thấy cô bắt tay thân mật với một người đàn ông có mái tóc bạc trắng hất ngược ra phía sau khiến cha liên tưởng đến một loài chó nào đó. Lúc cha gần như đã quyết định đi đến bên một cửa sổ để vờ như nhìn ngắm mặt tiền lộng lẫy của một giáo đường ở phía đối diện thì Helen bất chợt chộp lấy khuỷu tay cha – liệu đây có phải là sự khôn ngoan của cô ấy? – và lôi cha vào giữa đám đông.
“ ‘Đây là giáo sư Sándor, trưởng khoa sử Đại học Budapest và là nhà Trung cổ học vĩ đại nhất của chúng tôi,’ cô nói, trỏ vào người đàn ông có bộ dạng giống một chú chó lông trắng ấy, hà cha cũng vội tự giới thiệu. Tay cha như muốn nát ra vì cái siết chặt từ một bàn tay cứng như sắt, rồi giáo sư Sándor nói những lời biểu lộ niềm vinh dự lớn lao của ông vì có cha tham gia hội nghị. Trong khoảnh khắc, cha băn khoăn tự hỏi không biết ông ta có phải là người bạn của bà bác bí ẩn kia hay không. Cha ngạc nhiên khi nghe ông ta nói tiếng Anh, chậm rãi nhưng rõ ràng. “Tất cả chúng tôi đều vui mừng,’ ông ta nói, vẻ nồng nhiệt. ‘Chúng tôi vui mừng trông chờ bài diễn thuyết của anh vào ngày mai.’
“Cha cũng đáp trả bằng cách biểu lộ cảm giác vinh dự của mình khi được phép phát biểu tại hội nghị và thận trọng không nhìn vào mắt Helen khi nói.
“ ‘Tuyệt vời,’ ông giáo sư oang oang. ‘Chúng tôi luôn đánh giá cao những trường đại học ở đất nước anh. Mong sao hai đất nước chúng ta mãi mãi sống trong hòa bình và hữu nghị.’ Ông ta nâng ly đựng thứ nước uống có mùi vị dược phẩm kia lên chúc mừng cha, cha vội chúc mừng lại – một ly đầy thứ nước kia đã xuất hiện trong tay cha như phép ảo thuật. ‘Còn giờ thì, nếu có điều gì đó chúng tôi có thể làm để thời gian lưu trú của anh ở Budapest mến yêu này được vui vẻ hơn, anh phải cho chúng tôi biết nhé.’ Đôi mắt đen to sáng ngời trên gương mặt in dấu tuổi tác và tương phản kỳ lạ với mái tóc trắng bờm xờm của ông ta, cha thoáng liên tưởng đến mái tóc của Helen và chợt cảm thấy thích ông ta.
“ ‘Xin cảm ơn giáo sư,’ cha thành thật đáp lời, ông giáo sư vỗ mạnh bàn tay to lớn lên lưng cha.
“ ‘Xin hãy vào đây, mình vừa ăn uống vừa trò chuyện.’ Tuy nhiên, ngay sau đó, ông ta biến mất vào những nhiệm vụ khác, cha lại thấy mình lọt thỏm giữa những câu hỏi háo hức của những thành viên khác trong khoa sử và các học giả khách mời khác, một số trông còn trẻ hơn cha. Họ túm tụm quanh Helen và cha, thỉnh thoảng cha nghe được trong giọng nói của họ bập bẹ tiếng Pháp, tiếng Đức và một vài thứ tiếng khác mà có lẽ là tiếng Nga. Thực ra, đó là một nhóm người sôi nổi, lịch thiệp, và cha bắt đầu quên đi sự căng thẳng của mình. Helen giới thiệu cha bằng một thái độ lịch sự xa cách mà cha nhận ra đúng là phù hợp với không khí của hội nghị này, cô giải thích cặn kẽ bản chất của công việc chung của chúng ta và bài viết chúng ta sắp công bố trên một tạp chí chuyên ngành Mỹ. Những gương mặt hăm hở cũng vây xung quanh cô, cùng hới những câu hỏi chớp nhoáng bằng tiếng Hungary, và khi cô bắt tay, thậm chí hôn lên má một vài người quen cũ, gương mặt cô lại ửng hồng. Rõ ràng, họ không quên cô – nhưng làm sao mà họ quên được? cha nghĩ vậy. Cha để ý nhận thấy còn nhiều phụ nữ khác trong phòng, một số lớn tuổi hơn và một vài cô còn rất trẻ, nhưng Helen làm lu mờ tất cả bọn họ. Cô cao hơn, sống động hơn, đĩnh đạc hơn, với đôi bờ vai rộng, mái đầu xinh đẹp với những lọn tóc xoăn dày, ánh mắt sôi nổi một vẻ mỉa mai châm biếm. Cha quay sang một trong những thành viên trong khoa sử để khỏi nhìn chằm chằm vào cô; thứ nước uống nặng đô kia bắt đầu chảy rần rật trong mạch máu.
“ ‘Ở đây vẫn hay tổ chức hội nghị như thế này à?’ Cha không chắc mình muốn nói gì, nhưng dù sao cũng phải nói gì đó khi không nhìn vào Helen chứ.
“ ‘Đúng vậy,’ ông bạn đứng cạnh cha trả lời, vẻ hãnh diện. Ông ta hơi lùn, khoảng sáu mươi, diện bộ com lê và cà vạt đều cùng màu xám. ‘Trường chúng tôi đã tổ chức nhiều hội thảo quốc tế, đặc biệt là khoảng thời gian hiện tại.’
“Cha muốn hỏi ông ta có ý gì khi nói đặc biệt là khoảng thời gian hiện tại, nhưng giáo sư Sándor lại xuất hiện và dẫn cha đến gặp một người đàn ông đẹp trai có vẻ như rất nôn nóng muốn gặp cha. ‘Đây là giáo sư Géza József,’ ông ta giới thiệu. ‘Anh ấy rất muốn làm quen với anh.’ Ngay lúc đó, Helen quay lại phía chúng ta, cha vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra cô thoáng lộ hẻ khó chịu – hay thậm chí còn tức giận nữa? Cô lập tức đi về phía chúng ta, tựa như muốn can thiệp.
“ ‘Mạnh khỏe chứ, anh Géza?’ cô bắt tay giáo sư Géza József, vẻ hình thức và khá lạnh nhạt, thậm chí trước khi cha kịp chào hỏi anh ta.
“ ‘Rất hân hạnh được gặp cô, Elena,’ giáo sư József khẽ nghiêng đầu chào đáp lễ, cha cũng nhận ra có gì đó bất thường trong giọng nói anh ta, có thể đó là một nét nhạo báng nhưng cũng có thể là một cảm xúc khác. Cha băn khoăn tự hỏi liệu có phải chỉ vì cha mà họ đang trao đổi với nhau bằng tiếng Anh.
“ ‘Và,’ cô nói, không chút thân thiện. ‘Cho phép tôi giới thiệu người bạn mà tôi đang cùng làm việc tại Mỹ…’
“ ‘Rất vui được gặp anh,’ anh ta nói, nở với cha một nụ cười như muốn khoe ra hết những nét đẹp đẽ trên mặt mình. Anh ta cao hơn cha, mái tóc rậm màu nâu và dáng hẻ tự tin của một người đàn ông cảm thấy thỏa mãn với khí chất nam nhi của chính mình – cha nghĩ, hẳn anh ta trông sẽ tuyệt đẹp nếu ở trên lưng ngựa, rong ruổi trên thảo nguyên cùng các đàn cừu. Anh ta nồng nhiệt bắt tay cha, một tay bắt tay cha, tay kia vỗ vỗ lên vai cha biểu lộ sự chào đón thân tình. Dù không rũ bỏ ấn tượng do Helen tạo ra, cha cũng không hiểu tại sao Helen lại tỏ vẻ không ưa anh ta. ‘Và ngày mai chúng tôi sẽ vinh dự được nghe bài diễn thuyết của anh chứ? Thật là tuyệt vời,’ anh ta thốt lên, rồi chợt ngừng lại. ‘Nhưng tiếng Anh của tôi không khá lắm. Liệu anh có thể nói bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Đức được không?’
“ ‘Tôi chắc chắn tiếng Anh của anh còn hơn xa thứ tiếng Pháp hoặc tiếng Đức của tôi,’ cha trả lời ngay.
“ ‘Anh thật khiêm tốn.’ Nụ cười của anh ta tươi rói như cả một cánh đồng hoa. ‘Theo tôi biết, lĩnh vực của anh là sự cai trị của đế quốc Ottoman ở vùng Carpates phải không?’
“Rõ ràng ở đây tin tức loan truyền nhanh thật, cha thầm nghĩ; chẳng khác gì ở quê nhà. ‘À, vâng,’ cha xác nhận. ‘Dù vậy, tôi chắc rằng sẽ còn phải học hỏi nhiều điều từ phân khoa của các bạn về chủ đề đó.’
“ ‘Chắc chắn là không đâu,’ anh ta xã giao nói nhỏ. ‘Nhưng tôi cũng có nghiên cứu chút ít và rất vui nếu được bàn luận với anh về chủ đề này.’
“ ‘Giáo sư József quan tâm đến nhiều lĩnh vực lắm,’ Helen xen vào. Giọng cô lạnh tanh tưởng như có thể làm cho nước sôi cũng phải đông lại. Quả thực khó xử, nhưng cha nhớ lại là hầu như mọi khoa ở mọi trường đại học đều phải chịu đựng những bất ổn nội bộ, nếu không nói là những cuộc chiến tranh tổng lực, và trường hợp này chắc hẳn không phải là ngoại lệ. Trước khi cha kịp nghĩ ra một lời hòa giải nào đó thì Helen đột ngột quay sang cha. ‘Chúng ta phải đi đến cuộc hẹn kế tiếp thôi,’ cô nói. Trong một thoáng, cha không biết cô định đề cập đến người nào, nhưng cô đã nắm lấy bàn tay cha, vẻ cương quyết.
“ ‘Ồ, tôi thấy quả thực anh rất bận rộn,’ giáo sư József tỏ vẻ rất hối tiếc. ‘Có lẽ chúng ta có thể bàn luận về chủ đề đế chế Ottoman vào dịp khác chăng? Tôi sẽ hân hạnh nếu được giới thiệu với anh một chút về thành phố của chúng tôi, hoặc mời anh ăn trưa…’
“ ‘Anh ấy sẽ rất bận rộn suốt cả thời gian hội nghị,’ Helen cắt lời. Cha bắt tay anh ta, một cách chừng mực như mức độ lạnh lẽo trong ánh mắt Helen cho phép, rồi anh ta chợt túm lấy bàn tay rảnh rang kia của Helen.
“ ‘Rất vui khi thấy cô trở lại quê nhà,’ anh ta nói, cúi xuống hôn lên tay Helen. Cô rụt ngay tay lại, nhưng một vẻ kỳ lạ thoáng hiện trên mặt cô. Cha nhận thấy ở mức độ nào đó cô đã xúc động trước cử chỉ đó và bắt đầu cảm thấy không ưa tay sử gia Hungary đẹp trai này. Helen đưa cha trở lại chỗ giáo sư Sándor, chúng ta xin phép cáo từ và nói rất nôn nóng muốn được nghe các tham luận ngày mai.
“ ‘Và chúng tôi cũng rất mong được nghe tham luận của anh.’ Ông ta siết chặt tay cha bằng cả hai tay. Người Hungary là một dân tộc thật nồng hậu, cha nghĩ với một niềm hứng khởi có lẽ một phần xuất phát từ tác dụng của thứ nước uống kia trong máu cha. Chừng nào còn trì hoãn được những suy nghĩ thực tế về bài diễn thuyết sắp tới của mình, cha sẽ vẫn còn được bồng bềnh trong cảm giác hài lòng. Helen khoác lấy tay cha, và trước khi bước ra ngoài, cha nghĩ cô đã liếc nhanh căn phòng một lượt.
“ ‘Tất cả chuyện đó là sao vậy?’ Bầu không khí buổi tối mát lạnh và cha chưa bao giờ cảm thấy hưng phấn như vậy. ‘Tôi nghĩ đồng hương của cô đều là những người dễ chịu nhất tôi từng được gặp, nhưng tôi có cảm giác cô luôn sẵn sàng chặt đầu anh bạn giáo sư József.’
“ ‘Đúng vậy,’ cô trả lời cộc lốc. ‘Anh ta là người khó lòng chịu đựng nổi.’
“ ‘Không thể chịu đựng nổi, như thế mới đúng,’ cha nói. ‘Điều gì khiến cô đối xử với anh ta như vậy? Anh ta chào hỏi cô như một người bạn cũ kia mà?’
“ ‘Ồ, thực ra anh ta thì chẳng có gì không ổn cả, ngoại trừ việc anh ta là thứ kền kền ăn thịt người. Một con ma cà rồng thực sự.’ Cô dừng nửa chừng, nhìn cha đăm đăm, mắt mở to. ‘Tôi không có ý…’
“ ‘Dĩ nhiên cô không có ý đó,’ cha ngắt lời cô. ‘Tôi đã quan sát kỹ răng nanh anh ta mà.’
“ ‘Anh cũng là loại người không thể chịu nổi,’ cô thốt lên, buông tay cha ra.
“Cha nhìn cô, vẻ tiếc nuối. ‘Tôi không phiền hà gì việc cô khoác tay tôi đâu,’ cha nhẹ nhàng nói, ‘nhưng liệu đấy có phải là một ý hay không, nhất là trước mặt toàn thể trường đại học của cô?’
“Cô vẫn nhìn cha trừng trừng, cha không giải mã nổi vẻ u tối trong đôi mắt cô. ‘Đừng lo, không có ai trong khoa nhân học có mặt đâu.’
“ ‘Nhưng cô biết nhiều nhà sử học, mà người ta có thể buôn chuyện với nhau,’ cha nhấn mạnh.
“ ‘Ồ, không phải ở đây đâu.’ Cô bật lên một tiếng cười mũi khô khan. ‘Ở đây, chúng tôi là những người cùng đồng tâm hiệp lực làm việc với nhau. Chẳng có chuyện ngồi lê đôi mách hoặc xung đột gì cả – chỉ có tình đồng chí mà thôi. Ngày mai anh sẽ thấy. Đó thực sự là một xứ utopia nho nhỏ.’
“ ‘Helen,’ cha muốn rên lên. ‘Cô làm ơn nghiêm chỉnh, một lần thôi, được chứ? Tôi chỉ lo ngại cho tiếng tăm của cô ở nơi này – tiếng tăm về mặt chính trị đấy. Xét cho cùng, một ngày nào đó cô phải trở lại nơi chốn này và phải đối mặt với tất cả những con người này.’
“ ‘Tôi phải trở lại à?’ Cô lại khoác tay cha và chúng ta lại bước đi. Cha cứ để yên như vậy; ngay khoảnh khắc đó, cha không cảm thấy gì ngoài cảm giác va chạm êm ái của lớp vải áo khoác của cô với khuỷu tay mình. ‘Dù sao đi nữa, chuyện đó cũng đáng phải làm. Tôi làm vậy chỉ để làm Géza phải nghiến răng thôi. Những chiếc răng nanh của hắn ấy, chỉ có vậy.’
“ ‘Chà, xin cảm ơn,’ cha thì thầm, nhưng cảm thấy không đủ tự tin để có thể nói gì thêm nữa. Nếu cô có ý định chọc cho ai đó phải nổi ghen, thì chắc chắn hành động đó cũng có tác dụng đối với cha. Cha bất chợt hình dung cô trong vòng tay rắn chắc của Géza. Liệu họ có quan hệ với nhau trước khi Helen rời khỏi Budapest? Họ hẳn phải là một cặp xứng đôi vừa lứa, cha thầm nghĩ – cả hai đều có cùng bản tính táo bạo, cao ráo và thanh lịch, vai rộng và tóc đen. Đột nhiên cha cảm thấy giống người Ănglô ốm yếu và nhỏ con như cha không phải là đối thủ của những kỵ sĩ vùng thảo nguyên này. Tuy nhiên, nét mặt Helen lộ vẻ không muốn phải nghe thêm câu hỏi nào nữa, nên cha đành tự cảm thấy bằng lòng với cảm giác cô lặng lẽ khoác tay mình.
“Chẳng mấy chốc, chúng ta đã quẹo vào cánh cửa thếp vàng và bước vào tiền sảnh lặng như tờ của khách sạn. Ngay khi chúng ta bước vào, đã có một dáng người đơn độc đứng giữa những chiếc ghế bọc vải màu đen và những cây cọ kiểng trồng trong chậu, đang im lặng chờ đợi chúng ta tiến đến. Helen kêu lên một tiếng và lao về phía trước, dang rộng đôi tay. ‘Bác Éva!’ ”