“Thực ra, trong suy nghĩ của cha, bác Éva nằm trong số những phụ nữ xinh đẹp, vừa khôn ngoan, vừa dữ dội; nên hiện tại cha cũng khá khó khăn khi hình dung lại con người thực sự của bà trong lần gặp gỡ đầu tiên, buổi tối đầu hè ở Budapest năm 1954. Cha nhớ rõ ràng Helen đã lao vào vòng tay của bà với vẻ trìu mến chẳng mấy khi thấy cô bộc lộ còn bà chỉ trầm tĩnh đứng yên, ôm và hôn thắm thiết lên cả hai bên má cô cháu gái. Khi Helen quay lại, đôi má ửng hồng, giới thiệu chúng ta với nhau, cha thấy nước mắt long lanh trong mắt của cả hai người phụ nữ. ‘Bác Eva, đây là anh bạn đồng nghiệp người Mỹ của cháu, người mà cháu đã kể với bác. Anh Paul, đây là bác tôi, Éva Orbán.’
“Cha bắt tay, cố không nhìn bà chằm chằm. Éva là một phụ nữ đẹp, cao ráo và có lẽ khoảng năm mươi lăm tuổi. Điều khiến cha ngạc nhiên đến sững sờ là bà rất giống Helen. Họ có thể là hai chị em – một người khá lớn tuổi và người kia trẻ hơn nhiều, hoặc hai người là một cặp sinh đôi – một người già dặn với những trải nghiệm gian khổ, trong lúc người kia vẫn còn trẻ trung tươi mát một cách diệu kỳ. Thực ra, bác Éva tuy thấp hơn nhưng vóc dáng vẫn còn mạnh mẽ và thanh nhã như Helen. Gương mặt bà hẳn đã có một thời đáng yêu hơn Helen, và bà vẫn còn rất đẹp, với chiếc mũi dọc dừa thẳng và khá dài, đôi gò má cương nghị, đôi mắt huyền trầm tư. Màu tóc của bà làm cha bối rối, nhưng rồi cha nhận ra rằng tóc của bà có thể chưa bao giờ có được màu nguyên thủy tự nhiên của nó, hiện tại đó là một màu đỏ ánh tím kỳ lạ, nhuốm bạc một chút ở chân. Trong những ngày kế tiếp ở Budapest, cha đã nhìn thấy những mái tóc nhuộm như vậy ở nhiều phụ nữ, nhưng dù sao lần đầu nhìn thấy màu tóc đó thì cha vẫn ngạc nhiên. Bà mang một đôi bông tai vàng nhỏ, mặc chiếc sơ mi nữ màu đỏ bên dưới bộ vest sậm màu, cùng kiểu với bộ vest của Helen.
“Khi chúng ta bắt tay nhau, bác Éva nghiêm nghị nhìn vào mặt cha, hầu như thẳng thắn. Cha nghĩ có thể bà đang xem xét liệu cha có khuyết điểm nào để cảnh báo với cô cháu gái, nhưng rồi cha lại tự trách mình; sao bà lại xem cha như một đối tượng tiềm tàng cho cô cháu gái thương yêu của bà được? Cha nhận ra những vết chân chim ở đuôi mắt và khóe môi, dấu hiệu của một nụ cười cởi mở. Chỉ một lát sau, nụ cười đó đã nở ra, tựa như bà không thể kìm nén lâu hơn. Thảo nào người đàn bà này có thể dễ dàng thu xếp để nhét thêm người vào các cuộc hội nghị hoặc lấy được dấu thị thực nhập cảnh ngay tức khắc, cha nghĩ, vẻ thông minh của bà rạng ngời đến mức chỉ nụ cười của bà mới sánh nổi. Giống như Helen, hàm răng bà trắng và đều đặn, một đặc điểm mà cha bắt đầu nhận ra không thường có bẩm sinh ở người Hungary.
“ ‘Rất hân hạnh được gặp bà,’ cha nói. ‘Cám ơn bà đã thu xếp để chúng tôi được vinh dự tham gia hội nghị này.’
“ ‘Bác Éva cười, siết chặt tay cha. Cha đã lầm vì khoảnh khắc trước đó nghĩ rằng bà là người kín đáo và trầm lặng; lúc này bà đang huyên thuyên một tràng tiếng Hungary, cha tự hỏi có phải bà cho là cha có thể hiểu được những câu ấy không. Helen lao đến cứu nguy ngay. ‘Bác tôi không nói được tiếng Anh,’ cô giải thích. ‘Mặc dù bác hiểu tiếng Anh nhiều hơn mức bác thừa nhận. Những người lớn tuổi ở đây thường học tiếng Đức hoặc tiếng Nga, đôi khi cả tiếng Pháp, nhưng tiếng Anh thì họa hoằn lắm. Tôi sẽ phiên dịch cho anh. Suỵt…’ Cô trìu mến đặt bàn tay lên cánh tay bà bác, nói một vài câu cầu khiến ngắn gọn bằng tiếng Hung. ‘Bác ấy nói rất hân hạnh được đón tiếp anh ở đây và hy vọng anh sẽ không gặp rắc rối nào, bởi bác đã làm cho cả văn phòng của viên phó lãnh sự phụ trách thị thực nhập cảnh rối tung lên với việc cấp thị thực cho anh. Bác ấy mong sẽ được anh mời đến nghe diễn thuyết – bác ấy không hiểu tiếng Anh tốt lắm đâu, nhưng đó là vấn đề nguyên tắc – và anh phải thỏa mãn sự tò mò của bác về trường đại học của anh ở Mỹ, về việc anh đã gặp tôi như thế nào, liệu ở Mỹ tôi có cư xử chừng mực không, và thứ đồ ăn nào mẹ anh thường nấu. Sau này, bác ấy chắc chắn sẽ còn nhiều thắc mắc khác nữa đấy.’
“Cha ngạc nhiên nhìn hai người bọn họ. Cả hai đang mỉm cười nhìn cha, hai người phụ nữ tuyệt vời, cha chợt nhận ra sự giống nhau kỳ lạ giữa tính cách ưa châm biếm của Helen trên gương mặt bác cô, dù Helen có thể có lợi thế hơn nếu bắt chước được nụ cười thường trực như trên gương mặt của bác Éva. Chắc chắn không ai lừa được một người như bác Éva Orbán; xét cho cùng, cha nhớ lại, bà xuất thân từ một làng quê Rumani mà đã lên được đến một vị thế đầy quyền lực trong chính quyền Hungary kia mà. ‘Chắc chắn tôi sẽ cố gắng đáp ứng những mối quan tâm của bác cô.’ Cha nói với Helen. ‘Xin vui lòng giải thích với bà ấy món đặc sản của mẹ tôi là thịt băm nướng và nui pho mát.’
“ ‘Á, thịt băm nướng,’ Helen thốt lên. Bà Éva nở nụ cười tán thưởng sau khi nghe cô giải thích. ‘Bác ấy nhờ anh chuyển đến mẹ anh lời thăm hỏi và chúc mừng vì đã có người con trai tuyệt vời.’ Cha cảm thấy đỏ mặt lên vì ngượng nhưng vẫn hứa sẽ chuyển đến bà nội con lời nhắn đó. ‘Giờ bác ấy đưa chúng ta đến một nhà hàng mà anh sẽ rất thích, một hương vị Budapest cổ xưa.’
“Vài phút sau, cả ba chúng ta đã ngồi vào băng ghế sau trong xe riêng của bác Éva – cũng xin nói thêm là chẳng mấy giống xe của người vô sản – Helen ngồi chỉ trỏ các cảnh quan bên ngoài mỗi lần bà bác nhắc. Cha cũng nên nhắc lại, qua hai lần gặp gỡ, bác Éva chưa bao giờ thốt ra với cha một từ tiếng Anh nào, nhưng cha có ấn tượng đó chỉ là một vấn đề nguyên tắc – một nghi thức mang tính chống phương Tây chăng? – như bất kỳ vấn đề nào khác; khi Helen và cha có chuyện trao đổi với nhau, bác Éva thường có vẻ như hiểu được phần nào câu chuyện, ngay cả trước khi Helen kịp dịch lại. Tựa như thông qua cách dùng ngôn ngữ thế này, bác Éva đang tuyên bố rằng phải giữ khoảng cách với những gì của phương Tây, thậm chí phải tỏ ra căm ghét một chút, nhưng cá nhân một người phương Tây thì hoàn toàn có thể là một người dễ thương và đáng được hưởng trọn vẹn lòng hiếu khách của người Hungary. Rốt cuộc, cha cũng quen với việc nói chuyện với bà thông qua Helen, thậm chí một đôi lần cha có cảm giác gần như hiểu được những âm điệu trầm bổng như thơ của thứ tiếng bà nói.
“Dù sao thì giữa chúng ta vẫn có một vài hình thức giao tiếp không cần phải có người thông dịch. Sau một cuộc dạo bằng xe dọc theo dòng sông cực kỳ thú vị, chúng ta vượt qua cái mà sau này cha mới biết là Széchenyi Lánchid, cây Cầu Xích Széchenyi, một phép màu của kỹ thuật thế kỷ mười chín, được đặt tên theo một trong những con người vĩ đại có công làm đẹp cho thành phố Budapest, Bá tước István Széchenyi. Khi chúng ta hướng lên cây cầu, ráng chiều hắt lên từ dòng Danube tràn ngập toàn bộ quang cảnh, làm cho các hình khối đầy ấn tượng của các lâu đài và giáo đường bên Buda, nơi chúng ta đang hướng đến, như chìm vào trong một bức tranh khắc nổi chỉ có hai màu vàng và nâu. Bản thân cây cầu là một công trình đồ sộ mà thanh nhã, đỡ trên mình nó hai khải hoàn môn khổng lồ, canh giữ ở mỗi đầu là tượng những chú sư tử nằm phủ phục. Cha há hốc miệng, sững sờ ngắm nhìn, và bắt gặp nụ cười của bác Éva, Helen, đang ngồi giữa cha và Éva cũng nở nụ cười tự hào. ‘Một thành phố tuyệt vời,’ cha thốt lên, bác Éva chợt với sang siết chặt cánh tay cha, tựa như cha đã trở thành một trong những đứa con đã lớn khôn của bà.
“Helen giải thích với cha rằng bác Éva muốn cho cha biết về việc xây dựng lại cây cầu. ‘Budapest bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh,’ cô dịch lại. ‘Chúng tôi vẫn còn một cây cầu chưa sửa xong, nhiều công trình khác cũng phải chịu hoàn cảnh tương tự. Anh có thể thấy chúng tôi đang xây dựng lại ở khắp mọi nơi trong thành phố. Nhưng cây cầu này đã được sửa chữa lại để – người ta gọi thế nào nhỉ? – kỷ niệm một trăm năm tuổi của nó, từ năm 1949, chúng tôi rất hãnh diện vì điều đó. Và đặc biệt là tôi vô cùng hãnh diện vì bác là người đứng ra tổ chức việc tái thiết đó.’ Bác Éva gật đầu, mỉm cười và rồi có vẻ như khựng lại vì chợt nhớ là mình được xem là không hiểu gì về những lời Helen vừa nói với cha.
“Một lát sau, chúng ta chạy vào một đường hầm có vẻ như nằm ngay dưới tòa lâu đài, bác Éva nói với chúng ta bác đã chọn đi ăn ở một trong các nhà hàng ưa thích nhất của bác, một chỗ ‘Hungary đích thực’ trên phố József Attila. Cha vẫn còn ngạc nhiên về tên những đường phố của Budapest, ngoài một số tên hoàn toàn xa lạ và có vẻ kỳ lạ với cha còn một vài tên khác, như cái tên này, gợi nhớ lại một quá khứ mà cha nghĩ chỉ có trong sách vở. Đường József Attila hóa ra cũng bề thế như hầu hết những đường phố khác của thành phố, hoàn toàn không phải là một đường mòn bùn lầy với những lều trại hoang dã dọc hai bên với những chiến binh Hung Nô nhồm nhoàm ăn uống ngay trên lưng ngựa. Bên trong nhà hàng rất yên tĩnh và thanh lịch, viên quản lý nhà hàng vội vã chạy đến chào hỏi đích danh bác Éva. Có vẻ bà đã quen với kiểu quan tâm đặc biệt này. Chỉ trong vài phút, chúng ta đã yên vị tại một bàn tốt nhất trong phòng, từ vị trí đó chúng ta có thể thưởng ngoạn cảnh trí của những cây cổ thụ và các tòa nhà cổ kính, những khách bộ hành tản bộ trong bộ cánh mùa hè sang trọng, thoáng nhìn thấy những chiếc xe nhỏ rồ ga phóng ngang qua thành phố. Cha ngồi dựa ra phía sau, buông ra một tiếng thở dài hài lòng.
“Bác Éva gọi món ăn cho cả ba người, như một điều đương nhiên, món ăn đầu tiên được mang ra kèm theo một loại rượu mạnh gọi là pálinka, Helen cho biết đó là loại rượu chưng cất từ quả mơ. ‘Nào, bây giờ chúng ta sẽ có một món rất ngon với thứ rượu này đây,’ bác Éva giải thích với cha, thông qua Helen. ‘Chúng tôi gọi món này là hortobàgyi palacsinta. Một loại bánh sữa nhồi với thịt bê, một món ăn truyền thống của dân chăn cừu ở những vùng đất thấp của Hungary. Anh sẽ thích món này cho mà xem.’ Cha thích thật, và cũng thích tất cả các món sau đó – thịt hầm rau, món ba lớp gồm trứng gà luộc kỹ, khoai tây và xúc xích Ý cắt lát, những món xa lát đẫm nước xốt, cừu hầm đậu xanh, và loại bánh mì vàng nâu tuyệt vời. Cho đến lúc đó cha vẫn chưa cảm thấy đói sau một ngày dài di chuyển. Cha cũng chú ý nhận thấy Helen và bác cô đã ăn uống rất tự nhiên, với một vẻ ngon miệng mà không một phụ nữ Mỹ lịch sự nào dám biểu lộ công khai trước mặt người khác.
“Tuy nhiên, sẽ là một điều sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta chỉ đang ăn uống. Khi tất cả các món ăn truyền thống này đã yên vị trong dạ dày thì bác Éva bắt đầu nói và Helen dịch. Thỉnh thoảng cha nêu vài câu hỏi này nọ, nhưng phần lớn thời gian, như cha nhớ, cha không kịp hấp thu cả hai thứ, thức ăn và lượng thông tin bác Éva đưa ra. Bà có vẻ nhớ kỹ trong đầu rằng cha thực sự là một nhà sử học; có lẽ thậm chí bà ngờ rằng cha hãy còn thiếu hiểu biết về lịch sử Hungary và muốn chắc chắn cha không làm bẽ mặt bà tại hội nghị, hoặc cũng có thể bà bị thôi thúc bởi lòng yêu nước của một công dân nhập cư từ lâu. Dù động cơ là gì chăng nữa, bà đã diễn tả rất xuất sắc, thậm chí cha có thể đoán được câu nói kế tiếp trên gương mặt sinh động và đầy sức sống của bà trước khi Helen kịp dịch câu nói đó.
“Chẳng hạn, khi nâng ly pálinka lần cuối để kết thúc việc chúc mừng tình hữu nghị giữa hai đất nước của chúng ta, bác Éva vừa cho gia vị vào món bánh kếp của dân chăn cừu vừa thuật lại nguồn gốc của thành phố Budapest – vốn là một vị trí đồn trú tên là Aquincum của binh lính La Mã, giờ vẫn còn có thể thấy những tàn tích của người La Mã nằm rải rác khắp nơi – sau đó bà vẽ nên một bức tranh sống động về Attila và chuyện đạo quân Hung Nô của ông ta đã lấy được Budapest từ tay người La Mã vào thế kỷ thứ 5. Cha nghĩ, so với người Hung Nô, người Ottoman thực sự là những người đến sau ôn hòa hơn. Món thịt hầm rau – món ăn Helen quả quyết với cha bằng một vẻ mặt dứt khoát: là gulyás chứ không phải thịt hầm rau, thịt hầm rau là món khác – lại dẫn đến một đoạn kể lể dài dòng về cuộc xâm lăng khu vực này của người Hungary vào thế kỷ thứ 9. Khi đến món khoai tây và xúc xích Ý cắt lát – chắc chắn là ngon hơn món thịt băm nướng hoặc mì nui trộn pho mát nhiều – bác Éva mô tả lại, vào năm 1000 sau Công nguyên, giáo hoàng đã làm lễ đăng quang cho vua Stephen I, sau này là Thánh István. ‘Ông vua này khởi thủy vốn là người ngoại đạo man rợ,’ bà nói thông qua Helen, ‘nhưng ông ta đã trở thành vị vua Hungary đầu tiên cải đạo và biến Hungary thành một nước Thiên Chúa giáo. Anh sẽ thấy tên ông ta khắp nơi ở Budapest.’
“Ngay khi cha nghĩ mình đã no đến không thể ăn thêm một miếng nào nữa, thì hai người phục vụ xuất hiện cùng với những đĩa bánh nướng và bánh kem, tất cả phủ đầy sô cô la và kem, kèm theo cà phê – ‘cà phê Eszpresszó,’ theo lời giải thích của bác Éva, những món ăn tráng miệng hẳn sẽ rất phù hợp với một đại điện vương giả kiểu Áo Hung. Và cha cũng không biết bằng cách nào, chúng ta vẫn còn bụng để tiêu thụ hết đống bánh tráng miệng đó. ‘Cà phê có một lịch sử bi thảm ở Budapest,’ Helen tiếp tục dịch lại lời của bác Éva. ‘Một thời gian rất lâu trước đây – đúng hơn là năm 1541 – Sleyman I, kẻ xâm lăng đến từ đế quốc Ottoman, đã mời Bálint Tưrưk, một trong các vị tướng của Hungary chúng tôi đến doanh trại của ông ta để dự tiệc, và cuối bữa ăn, trong lúc vị tướng nhâm nhi ly cà phê – anh biết đấy, vị tướng này là người Hungary đầu tiên thưởng thức hương vị cà phê – Sleyman báo cho ông ta biết rằng đội quân tinh nhuệ nhất của Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm lâu đài Buda trong lúc họ đang ăn uống. Anh có thể hình dung ly cà phê đó đắng như thế nào.’
“Lần này, nụ cười của bà trông có vẻ u sầu chứ chẳng tươi sáng chút nào. Lại là người Ottoman, cha nghĩ – họ thật thông minh biết bao, và tàn nhẫn nữa, một sự pha trộn lạ thường giữa mưu kế tinh tế và những thủ đoạn mọi rợ. Đến năm 1541, họ đã chiếm giữ Istanbul gần một thế kỷ; nhớ đến điều này khiến cha cảm nhận được sức mạnh bất diệt của họ, cái thành lũy vững chắc mà từ đó họ vươn vòi bạch tuộc ra khắp châu Âu, chỉ chịu dừng bước trước những cổng thành Vienna. Cuộc chiến của Vlad Dracula chống lại họ, giống như cuộc chiến của những đồng bào Thiên Chúa giáo, là cuộc chiến của chàng David nhỏ bé chống lại gã khổng lồ Goliath, mà mức độ thành công còn kém xa so với những gì David đạt được. Mặt khác, những nỗ lực của thiểu số quý tộc khắp Đông Âu và vùng Balkan, không chỉ trong Wallachia mà còn ở Hungary, Hy Lạp và Bungari – cha chỉ nêu tên một vài nước làm thí dụ, rốt cuộc chỉ mở đường cho sự chiếm đóng của đế quốc Ottoman. Helen đã thành công trong việc chuyển tải tất cả các thông tin trên vào đầu óc cha và để lại trong cha một sự thán phục vô cùng đối với Dracula. Hẳn hắn phải biết cuộc chiến đấu của mình chống lại các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ yểu mệnh, tuy vậy hắn đã chiến đấu hầu như suốt cả đời để giải phóng lãnh thổ khỏi tay những kẻ xâm lược.
“ ‘Thực ra đó là lần thứ hai quân Thổ chiếm đóng khu vực này.’ Helen nhấp một ngụm cà phê rồi đặt cốc xuống cùng với một tiếng thở khoan khoái, tựa như đối với cô, cà phê ở đây có mùi vị ngon hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. ‘Năm 1456, János Hunyadi đã đánh bại quân Thổ ở Belgrade. Ông, cùng với vua István và vua Matthias Corvinus – người đã xây dựng lại lâu đài Buda và xây mới thư viện Bibliotheca Corviniana vĩ đại, nằm trong số những anh hùng dân tộc của chúng tôi. Trưa mai, khi nghe tiếng chuông nhà thờ ngân vang khắp thành phố, anh có thể hiểu đó là để tưởng nhớ những chiến công xa xưa từ nhiều thế kỷ trước của Hunyadi. Hiện nay, hàng ngày người ta vẫn kéo chuông tưởng nhớ ông.’
“ ‘Hunyadi,’ cha trầm ngâm nói. ‘Hình như tối hôm trước cô có nhắc đến ông ta. Mà cô vừa nói chiến thắng của ông ta là vào năm 1456 đúng không?’
“Cô và cha lại nhìn nhau, bất kỳ thời điểm nào nằm trong khoảng thời gian Dracula còn sống đều trở thành một loại tín hiệu giữa hai chúng ta. ‘Lúc đó, hắn đang ở Wallachia,’ Helen nói, giọng nhỏ lại. Cha biết cô không có ý ám chỉ Hunyadi, bởi chúng ta đã có một thỏa thuận ngầm là không nhắc đến tên Dracula trước mặt người khác.
“Bác Éva quá sắc sảo nên đã nhận ra sự im lặng của chúng ta, và không để cho rào cản ngôn ngữ gây trở ngại. ‘Hunyadi à?’ bà hỏi, rồi nói thêm một điều gì đó bằng tiếng Hungary.
“ ‘Bác tôi muốn biết liệu anh có mối quan tâm đặc biệt nào đối với giai đoạn Hunyadi còn sống không,’ Helen giải thích.
“Vì không biết phải nói gì, cha trả lời là tất cả mọi vấn đề thuộc lịch sử châu Âu đều khiến cha cảm thấy thú vị. Câu bình luận ba phải này đã mang lại cho cha một vẻ mặt khó đoán ý, gần như cau mày của bác Éva, cha vội vàng tìm cách xoa dịu bà. ‘Xin cô vui lòng hỏi bà Orbán xem liệu tôi có thể nêu một vài câu hỏi với bà ấy?’
“ ‘Dĩ nhiên.’ Nụ cười của Helen có vẻ như đã nắm bắt được cả lời yêu cầu lẫn động cơ của nó. Khi cô dịch lại, bà Orbán quay sang nhìn cha, vẻ khá cảnh giác.
“ ‘Tôi chỉ đang băn khoăn,’ cha nói, ‘liệu những gì tôi nghe được ở phương Tây về chủ nghĩa tự do hiện thời ở Hungary có thực hay không?’
“Lần này, thì đến gương mặt Helen cũng lộ vẻ cảnh giác, và cha nghĩ mình có thể sẽ lãnh của cô một cú đá quen thuộc ở dưới gầm bàn, nhưng bác Éva đã gật đầu ra hiệu cho cô dịch lại câu hỏi của cha. Khi đã hiểu, bà ta nở nụ cười độ lượng và nhẹ nhàng trả lời. ‘Ở Hungary này, chúng tôi luôn quý trọng lối sống, sự độc lập của mình. Đó là lý do vì sao chúng tôi đã rất khó khăn trong những giai đoạn cai trị của người Thổ và người Áo. Chính quyền đích thực của Hungary sẽ luôn phục vụ những nhu cầu của nhân dân mình, càng lúc càng tốt hơn. Khi cuộc cách mạng của chúng tôi đưa những người lao động thoát khỏi sự áp bức và nghèo khổ, chúng tôi đã khẳng định sẽ thực hiện mọi việc theo cách của riêng chúng tôi.’ Bà nở một nụ cười đằm thắm và cha ước gì có thể hiểu nhiều hơn nụ cười đó. ‘Đảng Cộng sản Hungary luôn hòa hợp với thời đại.’
“ ‘Như vậy liệu bà có cảm thấy Hungary đang phát triển thịnh vượng dưới chính quyền của Imre Nagy?’ Từ khi đến thành phố này, cha vẫn luôn tự hỏi chính quyền của vị tân thủ tướng theo khuynh hướng tự do này đã mang lại những thay đổi gì cho Hungary, từ khi ông thay thế Rákosi – vị thủ tướng theo chủ trương cộng sản cực đoan – vào năm ngoái, và liệu ông ta có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân như chúng ta đã đọc trên báo chí tại Mỹ. Cha nghĩ Helen đã dịch lại với chút ít lo lắng, nhưng trên môi bác Éva vẫn là nụ cười không thay đổi.
“ ‘Tôi thấy anh khá am hiểu tình hình thời sự đấy, anh bạn trẻ ạ.’
“ ‘Tôi luôn quan tâm đến vấn đề quan hệ quốc tế. Tôi tin rằng việc nghiên cứu lịch sử nên được coi là để chuẩn bị cho việc hiểu hiện tại, chứ không phải là để thoát ly hiện tại.’
“ ‘Rất thông minh. Chà, để đáp ứng sự hiếu kỳ của anh thì thủ tướng Nagy đang có được sự ủng hộ rất lớn của người dân và đang thực hiện những cải cách phù hợp với lịch sử vinh quang của chúng tôi.’
“Phải mất cả phút cha mới nhận thấy thực ra bác Éva đã cẩn thận để chẳng đưa ra thông tin gì cả, và một phút nữa mới nghĩ ra đó chính là sách lược ứng xử đã giúp bà giữ vững vị thế trong chính quyền suốt thời kỳ biến động chuyển từ chính sách của giới lãnh đạo thân Liên Xô sang những cải cách của những người chủ trương tinh thần dân tộc Hungary. Dù quan điểm cá nhân của bà đối với Nagy có thế nào thì hiện ông ta vẫn điều hành chính quyền mà bà đang tham gia hoạt động. Có lẽ chính sự cởi mở mà ông ta đã tạo ra ở Budapest cho phép bà – một quan chức cấp cao trong chính phủ – có thể mời một người Mỹ đi ăn tối. Ánh lấp lánh trong đôi mắt đen xinh đẹp của bà có thể đã đồng tình với những suy nghĩ trên, dù vậy cha vẫn không dám chắc, và như thực tế sau này đã chứng minh, hóa ra suy đoán của cha là chính xác.
“ ‘Và bây giờ, anh bạn, chúng tôi phải để anh ngủ chút ít trước khi đăng đàn diễn thuyết. Tôi rất mong được nghe và sau đó sẽ cho anh biết tôi nghĩ gì về bài thuyết trình đó,’ Helen tiếp tục việc thông dịch. Bác Éva gật đầu với cha, vẻ thân thiện, nên cha cũng không thể không đáp lại bằng nụ cười. Người phục vụ xuất hiện bên cạnh bà tựa như đã nghe được lời bà nói; cha khẽ đề nghị được thanh toán hóa đơn, dù chưa rõ phép xã giao thích hợp ở đây phải thế nào, thậm chí còn không biết liệu số tiền đổi ở phi trường có đủ để trả cho bữa ăn thịnh soạn này không. Tuy nhiên, nếu thực sự có một tờ hóa đơn thì nó đã được âm thầm thanh toán và biến mất trước khi cha kịp nhìn thấy. Trong phòng giữ mũ áo, cha đã giành với tay quản lý nhà hàng để lấy áo khoác cho bà, và chúng ta lại ngồi vào băng ghế sau chiếc xe chờ sẵn.
“Đến dưới chân cây cầu tráng lệ, Éva thì thầm một vài tiếng khiến người lái xe dừng lại. Chúng ta bước ra ngoài, đứng nhìn sang ánh sáng rực rỡ của khu Pest bên kia sông rồi nhìn xuống dòng sông đen thẫm lăn tăn gợn sóng. So với bầu không khí mát lành của Istanbul, gió ở đây hơi lạnh, rát buốt trên mặt cha, và cha có cảm giác như những thảo nguyên mênh mông vùng Trung Âu đang ở ngay phía chân trời. Quang cảnh phía trước chúng ta gần như là cảnh tượng mà cha muốn được nhìn thấy suốt đời; cha gần như không thể tin là mình thực sự đang đứng đó, nhìn vào ánh đèn của thành phố Budapest.
“Bác Éva lại thầm thì điều gì đó, Helen từ tốn dịch lại. ‘Thành phố chúng tôi sẽ mãi mãi là một thành phố tuyệt vời.’ Cha ghi nhớ câu nói đó. Gần hai năm sau, cha lại nhớ đến nó khi biết được lòng trung thành của Éva Orbán đối với chính phủ tân cải cách sâu sắc đến mức nào: hai người con trai đã trưởng thành của bà chết dưới xe tăng Liên Xô trên một quảng trường trong cuộc nổi dậy năm 1956 của sinh viên Hungary, bản thân bác Éva cũng phải chạy trốn lên miền Bắc Nam Tư, nơi bác đã biến mất trong những làng quê cùng với mười lăm ngàn người Hungary tị nạn khỏi chính quyền bù nhìn của người Nga. Helen đã viết thư cho bà nhiều lần, khẩn khoản năn nỉ bà cho phép chúng ta đưa bà đến Mỹ, nhưng Éva thậm chí đã từ chối không làm thủ tục di cư. Vài năm sau, cha cố gắng tìm tung tích của bà thêm một lần nữa, nhưng không thành công. Khi cha mất Helen, cha cũng mất liên lạc với bác Éva.”