Dưới sự giám sát của “Tưởng gia,” bọn họ lần lượt xếp hàng từ tay Lôi Tam nhận lấy túi tiền nặng trĩu, mỗi túi mười quan.
Lôi Tam không quên nghiêm giọng cảnh cáo từng người nhận tiền:
“Ra ngoài nhớ giữ mồm giữ miệng, hở ra nửa lời thì coi chừng gia quyến của các ngươi!”
Mọi người nhận tiền, biết chuyện này liên quan đến lợi ích của mình, đương nhiên không dám lắm lời để tránh rước họa.
Họ nhìn cánh cửa đóng kín kia, lòng đầy kích động.
Sắp được rời khỏi đây rồi…
Nhưng ngay lúc ấy, cánh cửa lớn bị đẩy bật ra! Một đội quan sai dưới sự dẫn dắt của Cao huyện úy xông vào.
Thấy Tưởng huyện thừa đứng trong sân, Cao huyện úy thoáng chốc sững sờ.
Đúng lúc này, Khuất Nguyên Đình dẫn theo một nhóm sai dịch tiến vào.
“Bắt toàn bộ người ở đây, giải về huyện nha!”
Một tiếng ra lệnh của Khuất Nguyên Đình, quan sai chẳng cần phân biệt ai là ai, gặp người liền bắt.
Tưởng huyện thừa đứng yên tại chỗ, không phản kháng. Nhưng Lôi Tam đã ngẩn người, còn Cao huyện úy thì lúng túng, không biết xử lý ra sao.
Khuất Nguyên Đình lạnh lùng nói với Cao huyện úy:
“Tưởng Đồng Phạm giả mạo công văn triều đình, người chứng vật chứng đầy đủ, Cao huyện úy còn không ra tay sao?”
Cao huyện úy bừng tỉnh, thấp giọng nói với Tưởng huyện thừa một câu:
“Đắc tội rồi!”
Tưởng huyện thừa không hề phản kháng, chỉ nhếch miệng cười lạnh nhìn Khuất Nguyên Đình.
Khuất Nguyên Đình giữ vẻ nghiêm nghị, không nhiều lời vô ích.
Chẳng bao lâu, toàn bộ người trong sân đều bị chế ngự. Sai dịch lục soát các phòng, thu được những văn kiện giả cùng các dụng cụ chưa kịp hoàn thành, tất cả được đóng gói vào hòm.
Khuất Nguyên Đình phất tay:
“Áp giải về!”
—
Tưởng Đồng Phạm bị giải về huyện nha, đối diện với thẩm vấn nhưng không nói một lời.
Vì Tưởng Đồng Phạm vốn là quan viên triều đình có phẩm cấp, xuất thân từ khoa cử, Khuất Nguyên Đình không thể dùng hình hay định tội. Thay vào đó, hắn lấy lời khai của Lôi Tam cùng các thợ thủ công, thợ thêu, rồi cho ký tên, điểm chỉ. Sau đó, một bản báo cáo về vụ làm giả công văn, kèm theo chứng cứ và hồ sơ vụ án, được gửi tới châu nha, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài để triều đình xử lý.
Vừa gửi đi không lâu, phần thưởng của Tiết độ sứ dành cho Khuất Nguyên Đình đã được ban xuống.
Vì hoàng thượng đích thân khen ngợi Khuất Nguyên Đình về biểu hiện xuất sắc trước ngoại bang, đồng thời ca tụng Tết độ sứ Hạ Tiến Minh vì có công lãnh đạo. Tiết độ sứ vui mừng, liền thưởng cho Khuất Nguyên Đình một trăm xấp vải vóc để khích lệ. Biết rằng khi mới nhậm chức, Khuất Nguyên Đình đã bị ám sát, Tiết độ sứ còn bổ sung thêm sáu người lực lưỡng để hỗ trợ.
Nhưng trọng tâm của mọi người lại nằm ở một trăm xấp vải vóc kia. Đó là một gia tài lớn!
Triều Đại Tuyên từ khi thành lập đã thực thi chính sách tiền tệ song hành, nghĩa là vải vóc, lụa là, gấm vóc đều có thể dùng làm tiền tệ.
Điều này xuất phát từ thực tế rằng vải vóc là vật dụng thiết yếu cho quần áo, gắn liền với đời sống hàng ngày. Vì thế, giá trị của chúng luôn ổn định.
Số vải vóc này ít nhất cũng có thể đổi được mười mấy hai mươi con bò!
Khuất Nguyên Đình gọi Linh Phủ đến:
“Tiền trong kho huyện đã gần cạn, đây là một số vải vóc vừa được gửi tới. Nàng tính phân phối thế nào?”
Linh Phủ biết đây là phần thưởng riêng của Khuất Nguyên Đình, là tài sản cá nhân của hắn, liền ngại ngùng nói:
“Đây là tiền của đại nhân, hay là để ngài tự sử dụng đi ạ.”
Khuất Nguyên Đình nhìn dáng vẻ cố gắng kiềm chế của Linh Phủ, bật cười:
“Cứ lấy mà dùng đi. Chẳng phải nàng muốn mua hạt giống sao?”
Muốn chứ… đương nhiên muốn rồi…
Nhưng mà công tư lẫn lộn như vậy, rút hết của Khuất Nguyên Đình, ta thực sự không nỡ!”
Khuất Nguyên Đình nói: “Đừng do dự nữa, mùa thu năm nay được mùa, lương thực ở quan thương sẽ đủ bù lại. Suy cho cùng, người hưởng lợi cũng là ta, vị huyện lệnh này. Nàng còn ngại gì nữa?”
Khuất Nguyên Đình là người nhân hậu, quan phủ cho dân mượn bò cày, nông cụ đều không thu phí. Nếu muốn hoàn trả những thứ đó cho Khuất Nguyên Đình, chỉ còn cách bảo đảm mùa thu này bội thu, dùng thuế nộp để trả lại.
Suy cho cùng, một trăm cuộn vải lụa này vẫn là tài sản công.
Có được số vải lụa này, Linh Phủ lập tức dẫn Tôn Bảo và Triệu Nhị đi mua giống cây trồng.
Đã bước vào giữa tháng Sáu, Linh Phủ lật xem các sách nông nghiệp, lại trò chuyện với những nông dân có kinh nghiệm để xác định phạm vi mua giống.
Vì tiết Hạ Chí đã qua từ lâu, những loại có thể trồng cũng không nhiều, nên họ chỉ mua các loại giống như củ cải, xà lách, cải bẹ, rau dền, và dưa.
Thực ra, vào khoảng giữa tháng Tám âm lịch, có thể bắt đầu trồng đại mạch và tiểu mạch. Còn hai tháng nữa, lúc đó nông dân đã thu hoạch được một số vụ, họ có thể tự mua giống.
Do vậy, Linh Phủ quyết định chỉ dùng một nửa số vải lụa để đổi lấy giống rau, phần còn lại dành hết để chế tạo nông cụ!
Mùa hè này nhất định phải làm việc hăng say, nếu không đến mùa thu, áp lực của nàng và Khuất Nguyên Đình sẽ rất lớn.
Giống mới mua được để các hương chính bàn bạc cách nhận về, phân phát cho các hộ nông dân phía dưới.
Để bảo đảm số giống này được sử dụng đúng cách, Linh Phủ buộc mỗi hương chính phải ký cam kết, rằng giống có thể mượn, nhưng mùa thu phải hoàn trả tương đương.
—
Cửa lớn của nhà ngục huyện nha từ từ mở ra. Ngục tốt báo với tân điển ngục Triệu Thọ Căn: “Phu nhân của Tưởng huyện thừa lại đến.”
Triệu Thọ Căn gấp sổ tuần tra đêm trong tay, nói: “Cho bà ấy vào đi. Huyện lệnh đại nhân đã dặn, không ngăn cản người nhà thăm tù.”
Ngục tốt nhận lệnh, dẫn Tưởng phu nhân vào ngục.
Tưởng phu nhân giữ lưng thẳng, dáng vẻ chỉnh tề, toát lên khí chất của một phu nhân huyện thừa.
Từ khi Tưởng huyện thừa bị giam, bà đã nhiều lần yêu cầu thăm chồng nhưng đều bị từ chối với lý do vụ án chưa xử xong. Nhưng bà không bỏ cuộc, gần như cách ngày lại đến nha môn hỏi một lần.
Hôm nay cuối cùng cũng được phép thăm, lòng Tưởng phu nhân thắt chặt, nhịn mùi hôi hám xộc vào mũi, từng bước theo ngục tốt vào sâu trong ngục thất.
Ngục tốt dẫn bà đến một gian phòng giam riêng ở cuối dãy, nói: “Đến rồi.”
Tưởng phu nhân nhìn qua song sắt, thấy một bóng lưng quen thuộc đang ngồi xếp bằng quay mặt vào tường, không kìm được mà run rẩy thốt lên: “Nhữ Thành!”
Bóng lưng của Tưởng Đồng Phạm khẽ động, chậm rãi quay đầu lại, nhìn thấy gương mặt đầy lo lắng của thê tử.
Ông ta đứng dậy bước đến gần, hai vợ chồng cách nhau một song sắt, im lặng nhìn nhau.
“Nhữ Thành, ngài gầy đi rồi…” Tưởng phu nhân mắt ngấn lệ.
Tưởng Đồng Phạm mỉm cười nhẹ: “Huệ Nương, vào đây rồi làm sao mà béo lên được?”
Tưởng phu nhân đưa tay qua song sắt, chạm vào gương mặt gầy guộc của phu quân, nhớ ra đồ mình mang theo, vội lấy ra.
“Ta làm chút thức ăn, ngài ăn ngay đi.”
Tưởng phu nhân mở giỏ thức ăn, cẩn thận đưa từng món qua song sắt.
Tưởng Đồng Phạm lặng lẽ nhìn hành động của thê tử, gật đầu, cầm đũa ăn.
Tưởng phu nhân ngồi xổm bên ngoài, chăm chú nhìn ông ta ăn, trong lòng thoáng an ủi, nhưng hơn cả sự an ủi là niềm tự hào.
Đây chính là người phu quân mà bà đã chọn, tinh anh, quả cảm, kiên cường vượt khó.
Dù giờ đang lâm vào cảnh tù tội, ông ta vẫn không lộ vẻ hoảng loạn. Sự điềm nhiên và bình thản của ông ta khiến lòng Tưởng phu nhân dần bình ổn lại.
Đây mới là nam nhân chân chính, lâm nguy không loạn, gặp biến không sợ, dường như không gì có thể đánh gục hay bẻ gãy.
Tưởng phu nhân nhìn phu quân, dịu dàng nói: “Nhữ Thành, bọn họ có làm khó ngài không?”
Tưởng Đồng Phạm thong thả gắp một miếng t.hịt dê: “Không đâu, nàng yên tâm. Ta là mệnh quan triều đình, Khuất Nguyên Đình chỉ có thể chờ thượng lệnh, hắn không dám làm gì ta.”
Ngừng lại một chút, ông ta bổ sung: “Vậy nên nàng cũng không cần tìm hắn, lại càng không cần cầu xin hắn.”
Tưởng phu nhân vội gật đầu: “Hắn lòng dạ hẹp hòi, không dung được ngài. Ta sao có thể tìm hắn! Nhưng chúng ta phải nghĩ cách, ta đã chuẩn bị sẵn sàng rồi, đồ đạc trong nhà đều có thể bán, chỉ cần cứu được ngài ra ngoài! Nhữ Thành, ngài nói một câu, ta nên cầu ai, tìm ai đây?”