Ánh mắt Thẩm Phong Niên nhìn Tiết Tử Du vừa có chút bất đắc dĩ lại pha lẫn tiếc nuối. Tiết Tử Du kinh ngạc hỏi: “Nghĩa phụ, chẳng lẽ tỷ tỷ thật sự phải…”
Sau buổi phong thưởng, tối đó đã có người trong yến tiệc bóng gió báo trước với Thẩm Phong Niên.
“Đại tướng quân sáng mai đi chầu là sẽ biết. Ta cam đoan mười mươi, đại tướng quân cứ an tâm mà để bụng nhé!” Quan viên đến chúc mừng còn thân thiết vỗ vào bụng ông mà cười.
Bên ngoài tiểu viện, Thẩm Phong Niên thở dài một tiếng.
“Dù sao cũng phải nói với Nguyên Tịch.” Ông nói khẽ với Tiết Tử Du.
Tiết Tử Du nhìn vào khung cửa sổ của tiểu viện đang phản chiếu ánh đèn, lắc đầu bảo: “Hay là để mai hẵng nói, kẻo tỷ ấy lại trằn trọc mất ngủ.”
“Con nói phải.”
Thế nhưng, sau khi tiễn Tiết Tử Du rời đi, Thẩm Phong Niên lại quay lại tiểu viện, đẩy cửa bước vào, cảm thấy như mình vừa làm điều gì sai trái, ông ngập ngừng gọi: “Nguyên Tịch, ngoan nào, con chưa ngủ sao?”
Thẩm Nguyên Tịch đang nhai bánh giòn, lật xem chồng sách mới mà Lưu Ngọc Hiền vừa tặng nàng.
“Phụ thân.” Nàng bỏ miếng bánh ra khỏi miệng, bẻ một nửa còn lại đưa cho Thẩm Phong Niên, “Người ăn thử đi, đây là món Trần tẩu mới học, chuẩn vị Hoa Kinh, rất ngon.”
Thẩm Phong Niên nhận miếng bánh, cắn một miếng rồi không biết nói gì tiếp. Ánh mắt ông đảo nhìn quanh, ngó đông ngó tây, chẳng dám nhìn vào con gái.
Trong căn phòng lặng lẽ đến kỳ lạ, Thẩm Nguyên Tịch siết chặt cuốn sách trong tay, khẽ hỏi: “… Con thật sự phải vào cung sao?”
Thẩm Phong Niên buột miệng: “Chưa chắc đâu.”
Thẩm Nguyên Tịch im lặng.
Thẩm Phong Niên hồi lâu sau mới bảo: “Phụ thân thấy… Hoàng thượng… phong thái tuấn tú, sẽ không để con chịu thiệt thòi đâu.”
Thẩm Nguyên Tịch không nói gì, chỉ hơi bối rối, như thể đang ngẩn ngơ.
Nàng từ từ nhìn về phía đống sách giấy vừa sắp xếp xong, kệ sách cạnh giường có móc sắt thô sơ và xấu xí mà nàng tự tay làm…
Chỉ nghĩ đến việc phải vĩnh viễn chia tay cuộc sống tự do thoải mái này, nỗi chua xót lại trào lên trong lòng.
“Vậy thì…” Thẩm Nguyên Tịch mở miệng định nói điều gì đó.
“Mai lên triều, ta sẽ nói với Hoàng thượng… chỉ là e rằng hơi bất công cho Tử Du.” Thẩm Phong Niên nói lời này mà bản thân cũng chẳng mấy chắc chắn, ông cố gượng cười, muốn làm không khí nhẹ nhàng hơn để an ủi con gái.
Ngược lại, chính Thẩm Nguyên Tịch lại an ủi ông.
“Không sao đâu, dù vào cung, con cũng sẽ không gây phiền toái cho người đâu, con đâu có ngốc.” Thẩm Nguyên Tịch nhe răng cười, gắng gượng tươi cười: “Lúc đến đây, con nghĩ Hoa Kinh thật đáng sợ, nhưng sau này đến Quốc công phủ, các tỷ muội ở đó chẳng ai làm khó con cả, con nghĩ trong cung cũng sẽ rất ổn thôi, người đừng lo cho con.”
Thẩm Phong Niên xoa đầu nàng, không nói thêm gì mà chỉ khẽ gật đầu.
Sau khi ông rời đi, Thẩm Nguyên Tịch mới buông thõng đôi vai, vẫn cầm cuốn sách mà lật xem, nhưng vừa xem vừa lén lau nước mắt.
Hôm qua nàng còn nài nỉ Phúc tẩu mua giúp một số cuốn sách mới từ phố Đông, chưa kịp mở ra xem thì đã phải nói lời chia tay với cuộc sống này rồi.
Nàng vừa rồi muốn ôm lấy phụ thân mà khóc, khóc một cách nhõng nhẽo, bảo rằng nàng không muốn vào cung, thậm chí không muốn gả chồng.
Nàng chỉ muốn sống một đời như thế này, quanh quẩn ở nhà, có người che chở cho một cõi trời nhỏ của nàng, muốn ăn thì ăn, muốn lười thì lười, muốn nói gì thì nói, lúc rảnh rỗi lại cưỡi ngựa, luyện chữ, chẳng phải tuân theo quy củ, cũng chẳng bị gò bó.
Cuộc sống mà nàng đã quen, nếu vào cung, đời này kiếp này sẽ không còn nữa. Nàng sẽ phải sống trong cảnh nơm nớp lo sợ, lúc nào cũng mệt mỏi, mặt lúc nào cũng phải giữ nụ cười đoan trang.
Thẩm Nguyên Tịch âm thầm khóc một lúc, dụi khô nước mắt rồi rúc vào giường. Mệt mỏi chìm vào giấc ngủ, nàng mơ màng nghĩ:
Đều là lỗi của Tam Điện hạ, đã không để Tử Du thiêu rụi ngọn đèn trời đúng lúc, khiến mẫu thân không thể nhận được tâm nguyện năm nay của nàng.
Giá như sinh thần hôm đó nàng về nhà sớm để cùng Tử Du thả đèn trời, thì Hoàng thượng đã không để mắt đến nàng, cũng không bắt nàng vào cung.
Sáng hôm sau, Thẩm Phong Niên đã rời đi từ lúc canh tư.
Buổi chầu triều đầu tiên sau buổi phong thưởng, các quan trong kinh thành đều biết, nói là sẽ mở buổi triều đặc biệt, chuẩn bị nghi thức như đại triều hằng năm.
Đây cũng là lần đầu tiên Thẩm Phong Niên dự buổi chầu triều sau khi về kinh, vị trí ngồi ở bên trái hàng thứ hai.
Khi Hoàng đế bước vào, ông thấy rất rõ, sắc mặt Hoàng đế cực kỳ tốt, tinh thần phấn chấn, mắt mày rạng rỡ, vui vẻ tột cùng, ngay cả bước chân cũng đầy vẻ đắc ý.
Triều phục đỏ tươi phủ xuống, đợi cung nhân xướng đọc xong, Hoàng đế không đợi Thẩm Phong Niên kịp lên tiến đã mở lời, việc đầu tiên là ban chiếu chỉ tứ hôn, còn phong cho nàng danh hiệu “Nghi Phi.”
Hai bên văn võ bá quan đều chúc mừng Hoàng thượng, chúc mừng Thẩm Phong Niên, trên triều đình tràn ngập không khí vui vẻ, ấm áp và hài hòa.
Hoàng đế hơi nghiêng người, giọng điệu như đang nói việc nhà: “Đây là thánh chỉ do trẫm đích thân viết, không biết Nghi Phi sau khi nhìn thấy sẽ có ý kiến gì.”
Có vẻ như ngài thật sự muốn biết phản ứng của Thẩm Nguyên Tịch khi nhận được hôn chỉ.
Thẩm Phong Niên đành nghiến răng cảm tạ, nhưng lúc đứng lên, trong lòng thoáng hiện lên gương mặt của con gái, suýt chút nữa không kìm được mà bật khóc ngay tại chỗ.
Sau buổi triều, thái giám bên cạnh Hoàng đế nâng hôn chỉ, mang theo đợt lễ vật đầu tiên, vừa tấu nhạc vừa hướng về phủ tướng quân mà đưa tới.
Thẩm Nguyên Tịch đã sớm bị lôi dậy, nhóm người từ trong cung đến báo trước còn chu đáo mang theo một ma ma, đứng bên cạnh hướng dẫn nàng mặc trang phục chỉnh tề, từ sớm đã chờ ở cửa phủ tướng quân, chỉ đợi hôn chỉ tới sẽ tiếp nhận một cách trịnh trọng.
Ma ma đã căn dặn ba lần về cách đứng dậy, cách nhận hôn chỉ, nhận xong thì phải hồi đáp như thế nào.
Thẩm Nguyên Tịch gật đầu qua loa, miệng lẩm nhẩm những bước cần làm, vừa xoa xoa thái dương nhức nhối. Da đầu nàng bị kéo căng do kiểu tóc, cả người như bị một sợi dây vô hình nâng lên, treo lơ lửng trên xà nhà.
Cuộc sống sau này, e là cũng sẽ chỉ như thế này thôi.
Tiếng nhạc đã đến gần.
Ma ma nở nụ cười tươi, tinh thần cũng phấn khởi.
Chỉ còn một khúc quanh nữa thôi, hôn chỉ sẽ tới nơi.
Thế nhưng tiếng nhạc đột nhiên ngừng bặt, như thể bị ai đó bóp nghẹn ở cổ, “kẹt” một tiếng, không nghe thấy gì nữa.
Ma ma lộ vẻ căng thẳng, lẩm bẩm: “Làm sao thế này?”
Đợi mãi cũng không thấy đội đưa hôn chỉ tới.
Ma ma sai một cung nhân đi xem thử tình hình, chẳng bao lâu sau, cung nhân ấy hớt hải chạy về, vẻ mặt vừa phấn khích vừa bối rối, nói: “Tam Điện hạ!!”
Ma ma: “?”
Cung nhân lớn tiếng hơn, rõ ràng rành mạch và đầy khí thế: “Tam Điện hạ đã đốt hôn chỉ rồi!”
Giọng hắn nghe đầy kích động, đến nỗi vừa dứt lời mới nhận ra, chết thật, đây là hôn chỉ cơ mà! Hoàng thượng tự tay viết đó! Sự việc này nghiêm trọng rồi!
Hắn vội vàng điều chỉnh lại vẻ mặt hoảng hốt, dè dặt nói: “Là Tam Điện hạ, Tam Điện hạ đã đốt hôn chỉ, bảo Cảnh công công dẫn mọi người quay về.”
Ma ma: “A?!”
Thẩm Nguyên Tịch chớp chớp mắt, cũng thốt lên: “A?”
Ma ma sững sờ đến ngây người: “Tam Điện hạ? Cảnh công công? A? Sao lại quay về rồi? Vậy hôn chỉ này có còn tuyên không?”
Cung nhân đáp: “Tôi không biết nữa!”
Ma ma không cam lòng, lại hỏi: “Nguyên văn Tam Điện hạ nói thế nào? Nói lại rõ ràng cho ta nghe!”
Cung nhân đáp: “Lúc tôi đến, hôn chỉ đang nằm trong tay Tam Điện hạ, ngài ấy lập tức “xoẹt” một cái, đốt sạch hôn chỉ. Sau đó tôi nghe thấy Tam Điện hạ nói với Cảnh công công…”
Hắn hắng giọng, bắt chước: “Cút về.”